Chủ Nhật, 24 tháng 12, 2023

LONG VƯƠNG MIẾU- TRẤN BIÊN XƯA.

 



CỔ MIẾU LONG VƯƠNG- XỨ BIÊN TRẤN XƯA

(Tục gọi Miếu Ông: Khu phố II, phường Long Bình, tp Hồ Chí Minh).

*Lê Ngọc Quốc



Long Vương Điện

(Ảnh minh hoạ copy internet)

Trong thư tịch, miếu Long Vương được nhắc đến và tính đến hiện nay, có lịch sử hơn 300 năm kể từ khi Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vâng lệnh chúa Nguyễn Phúc Chu kinh lược xứ Đồng Nai, thiết lập hành chính đầu tiên trên vùng đất phương Nam vào năm Mậu Dần – 1698. Hiện nay, ngôi miếu thuộc khu phố II, phường Long Bình, thành phố Hồ Chí Minh; Miếu Long Vương xưa thuộc dinh Trấn Biên, huyện Phước Long và sau này thuộc tỉnh tỉnh Biên Hoà.

1. Miếu Long Vương trong thư tịch

Ba nguồn thư tịch của Việt Nam đề cập miều Long Vương: Hoàng Việt nhất thống dư địa chí của Lê Quang Định (1806), Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức (1820) và Đại Nam nhất thống chí của triều Nguyễn (1865). Trong hồ sơ quân sự của người Pháp trong kế hoạch tiến đánh Biên Hòa do chuẩn Đô đốc Bonard soạn thảo (cuối năm 1861) và sau đó được tuần báo Illustration số ra ngày 01/3/1862 đăng tin, kèm bản đồ chi tiết có nhắc đến. Miếu Long Vương xuất hiện trong bản đồ địa hình Hạt tham biện Sài Gòn năm 1885 sau khi đã chiếm toàn bộ Nam kỳ, Pháp thành lập bộ máy cai trị.

- Hoàng Việt nhất thống dư địa chí (皇越一統輿地志) là sách địa chí do Lê Quang Định (1759-1813), Thượng thư bộ Binh biên soạn xong năm 1806. Đây là bộ địa chí đầu tiên của nhà Nguyễn, mở đầu cho các bộ địa chí có quy mô lớn và những phương chí sau này. Nét nổi bật nhất của bộ sách chính là việc ghi chép một cách tường tận về hệ thống giao thông đường bộ lẫn đường thủy của nước ta vào đầu thế kỷ XIX.

Trong ghi chép về Doanh Trấn Biên cho biết:“100 tầm (khoảng 230m) hai bên bờ đều có ruộng vườn và dân cư thưa thớt, đến chùa cổ Vãi Lượng, chùa ở trên gò đất bên bờ nam, ngày xưa có ni cô tên là Vãi Lượng dựng chùa này, ngày nay đã bị hư hỏng, phong cảnh chùa khá đẹp… 120 tầm, hai bên đều có ruộng vườn và dân cư thưa thớt, đến rạch Cai Quý [Quới], rạch ở bên bờ nam, rộng 10 tầm, chảy xuống hướng nam 947 tầm thì giáp ngả ba hai nhánh Mụ Lộ và Đồng Tròn, hai bên bờ đều có ruộng vườn và dân cư thưa thớt… 150 tầm, hai bên đều có ruộng vườn và dân cư thưa thớt, đến miếu Long Vương (龍王廟) thôn Phước Hòa, miếu ở bên bờ nam, tương truyền vào thời tiền triều khi Vân Long hầu [tức danh tướng Nguyễn Cửu Vân] đem quân đi chinh phạt Cao Miên, thuyền lương qua đến bến này thì bỗng dưng nổi sóng gió không tài nào đi được, Vân Long hầu bèn đến cầu đảo Long Vương linh thần thì liền có ứng nghiệm, sau khi xong việc bèn lập miếu thờ…”

- Gia Định thành thông chí (嘉 定 城 通 志) hay Gia Định thông chí (嘉 定 通 志) là một quyển địa chí của Trịnh Hoài Đức (1765- 1825) Hiệp Biện Đại học sĩ, sách viết về miền đất Gia Định bằng chữ Nho và chữ Nôm, là một sử liệu quan trọng về Nam Bộ thời nhà Nguyễn.

Quyển 6, Thành trì chí, Trấn Biên Hoà có đoạn ghi chép: “Đền Long Vương (龍王��), ở bờ nam sông Phước Giang, cách thành về phía đông 15 dặm. Đời Hiển Tông (1691-1725), Chánh thống suất Nguyễn Vân [tức danh tướng Nguyễn Cửu Vân] đi đánh Cao Miên, khi quân đến đây thấy vực sâu hiểm, dưới lòng sông có đá ngầm, nước xoáy mạnh, sóng dữ, bỗng gió to mưa lớn, rất nguy cấp, chiến thuyền hầu như khó an toàn. Bỗng thấy có ngôi đền tranh nhỏ vắng vẻ trong lùm cây bên bờ sông, hỏi ra mới đó là nơi thờ thần Long Vương. Vân Thống suất bèn cầu đảo thầm, trong chốc lát trời lại tạnh sáng, thuyền đi qua đều yên ổn. Lần đi này chỉ một trận là thành, nên ngày khải hoàn Ngài cho cho tu bổ lớn lao để đền ơn, nay đền vẫn còn nguy nga, trông rất trang nghiêm”

- Đại Nam nhất thống chí (大南一統志) là bộ sách dư địa chí, của Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn thời vua Tự Đức. Đây là bộ sách lớn nhất và quan trọng nhất về địa chí nước ta dưới thời nhà Nguyễn.  Tập 2, Tỉnh Biên Hoà, mục Đền Miếu ghi: “Đền Long Vương (龍王��): Ở thôn Long Sơn huyện Long Thành, bờ nam sông Phước Long; thờ Nhất, Nhị, Tam lang Long Vương. Đời vua Hiển Tông bản triều, suất thống Nguyễn Cửu Vân đi đánh Cao Man, đến chỗ này, thấy dưới vực sâu có gành đá nước xô sóng mạnh, giây lát lại nổi lên mưa mù gió dữ rất nguy hiểm; Ông cầu khấn liền được yên lặng, quân đi đến đâu đánh thắng đến đó, nên sau Ông dựng Đền để đền đáp, nay dân gian cầu đảo đều được linh ứng. Ở bên đền có nhiều cây cổ thụ, cây cao nhất thường có giống dơi vàng, lớn bằng con chim (dơi quạ), cánh dài đến 2 thước[thước ta khoảng 70-80cm], đến đậu cả trăm con, ai muốn bắn phải cầu khẩn mới bắn được “.

- Tài liệu của Pháp thời kỳ đầu Chiến tranh Pháp – Đại Nam

Ngày 01/09/1858, liên quân Pháp và Tây Ban Nha nổ súng tấn công Đà Nẵng mở đầu cuộc xâm lược Đại Nam. Ngày 02/02/1859, tướng De Genouilly kéo đại quân tiến xuống Nam kỳ. Ngày 18/02/1859, liên quân chiếm được thành Gia Định. Sau đó lần lượt đại đồn Chí Hoà (25/02/1861), rồi Định Tường (12/4/1861) cũng thất thủ…Lúc này trước nguy cơ chiến sự, triều đình nhà Nguyễn cho lập nhiều đồn lũy xung quanh bảo vệ thành Biên Hoà: Mỹ Hoà, Gò Công- Trau Trảu, Suối Sâu, Bình Thuận, Bình Chuẩn… Trên sông Đồng Nai, từ ngã ba Nhà Bè đến phía trước cửa thành Biên Hoà có chín cản gỗ và một cản đá. Dọc hai bờ sông có một số pháo đài bố trí súng thần công, dưới sông có một số thuyền chứa chất cháy dùng chiến thuật đánh hỏa công khi địch lọt vào trận địa. 

Theo “Bản đồ chiến trường tác chiến mới nhất ở Nam Kỳ Tuần báo Illustration số ra ngày 1/3/1862” thì khu vực Miếu Long Vương lúc bấy giờ có bố trí một pháo đài, được ghi chú là “Fort Rectangulaire de Long-Young” [Pháo đài hình chữ nhật – Long Vương].

Đồn Long Vương trong bản đồ trận đánh Biên Hoà 

của liên quân Pháp- Tây Ban Nha năm 1861

 Diễn biến trận Biên Hoà (1861) dược miêu thuật: Ngày 13-12-1861, tướng Bonard, chỉ huy trưởng quân Pháp ở Sài Gòn đã ký huấn lệnh về kế hoạch đánh chiếm Biên Hòa. Theo huấn lệnh này, lực lượng đánh chiếm Biên Hòa gồm đại đội khinh binh, do đại tá Foucault chỉ huy; đạo quân trù bị gồm 300 lính thủy quân lục chiến, 100 quân Tây Ban Nha và hai đại bác do đại tá Domenech Diego chỉ huy, đạo quân thứ ba gồm hạm thuyền (2 hạm thuyền) và lực lượng đổ bộ do thiếu tá Lebris chỉ huy. Trong kế hoạch, địch chia làm ba bước, trong đó có việc đánh chiếm Bến Gỗ để làm bàn đạp tiến quân về Biên Hòa. Ngày 14-12-1861, quân Pháp tiến đánh tỉnh Biên Hòa bằng cả đường bộ và đường thủy. 7 giờ 30 cùng ngày, Gò Công Trao Trảo rơi vào tay giặc (đại tá Comte chỉ huy). Ngày 15-12-1861, quân Pháp do Comte và Diego tiến lên đồn Mỹ Hòa, quân triều đình rút chạy. Trên đường sông Đồng Nai, hai cánh quân do Lebris và Harel chỉ huy gặp sự chống trả khá quyết liệt của quân triều đình. Tàu Alarme trúng 54 phát thần công, gẫy cả cột buồm. Phá được cản, quân Pháp tiến đánh phá các pháo đài ven sông [trong đó có đồn Long Vương], quân triều đình chống trả đến giữa đêm thì rút chạy. Sáng ngày 17-12-1861, quân thủy bộ của Pháp đã đến trước tỉnh thành Biên Hòa. Đích thân đô đốc Bonard theo chiến hạm Ondine chỉ huy trận tấn công. Chỉ sau ba loạt đạn pháo bắn rất quyết liệt, tuần phủ Nguyễn Đức Hoan và án sát Lê Khai Cẩn đã bỏ thành rút chạy, khâm sai đại thần Nguyễn Bá Nghi mang quân chạy ra Bình Thuận Ngày 18/12/1861, Liên quân tiến chiếm Thành Biên Hoà . 

2. Miếu Long Vương qua địa danh hành chính

Thời điểm 1698 đánh dấu mốc quan trọng trong cơ cấu hành chính của vùng đất phương Nam khi Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh thiết lập bộ máy quản lý đầu tiên, ổn định dân tình, hoạch định cương giới xóm làng “ Chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn”. Chưa rõ miếu Long Vương được xây dựng từ khi nào và lúc ấy địa danh hành chính tên gì, nhưng Miếu được xây dựng không thể trễ hơn năm 1705 – là thời điểm danh tướng Nguyễn Cửu Vân vâng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu, thống lĩnh quân thuỷ bộ Gia Định, tiến đánh quân Cao Miên đang cầu viện Xiêm La vào quấy rối phủ Gia Định.

Đến năm 1806, trong ghi chép của Hoàng Việt nhất thống dư địa chí thì Miếu Long Vương thuộc thôn Phước Hoà, bên bờ nam sông Phước Long [sông Đồng Nai]. Trong Gia Định thành thông chí (1820), thời Gia Long; mục cương vực chí, chúng ta thấy có tên: thôn Phước Hoà thuộc tổng Long Vĩnh, huyện Long Thành, phủ Phước Long, Trấn Biên Hoà.

Trong địa bạ Minh Mạng (1836) tỉnh Biên Hoà, huyện Long Thành, tổng Long Vĩnh Hạ, bờ nam sông Đồng Nai khu vực rạch Cai Quí [Quới], có ghi: thôn Long Thành- xứ Cai Quới [trong bản đồ hạt tham biện Sài Gòn năm 1885 ghi là R. Cai Quí-làng Long Sơn].

Làng Long Sơn nơi miếu Long Vương toạ lạc trong bản đồ 1873.

Địa giới làng Long Thành như sau: “Đông giáp thôn Bình Dương (Long Vĩnh Thượng), giáp thôn Long An, đều lấy lòng sông làm giới [sông Đồng Nai]. Tây giáp hai thôn Bình Thắng Đông, Bình Thắng Tây (tổng An Thuỷ Đông, huyện Bình An) đều lấy bờ ruộng làm giới. Nam giáp thôn Vĩnh Thuận, lấy lòng rạch làm giới [trong bản đồ hạt tham biện Sài Gòn ghi là R. Đồng Tròn]. Bắc giáp chân núi [Núi Vãi Lượng]”.

Trong Đại Nam nhất thống chí (1865) ghi: Đền Long Vương ở thôn Long Sơn huyện Long Thành, bờ nam sông Phước Long [sông Đồng Nai]. Bản đồ địa hình Hạt tham biện Sài Gòn năm 1885 (Plan topographique de l'arrondissement de Saïgon 1885)



Làng Long Sơn nơi miếu Long Vương toạ lạc trong bản đồ 1885

 cho thấy miếu Long Vương thuộc làng Long Sơn, tổng An Thuỷ, hạt Tham biện Sài Gòn. Cũng cần thông tin thêm, từ năm 1867, thực dân Pháp chiếm trọn 6 tỉnh Nam Kỳ. Sau đó, Pháp chia Nam Kỳ ra làm 6 tỉnh là Sài Gòn, Mỹ Tho, Biên Hòa, Vĩnh Long, Châu Đốc và Hà Tiên, đồng thời đặt ra 24 sở Tham biện để cai quản. Miếu Long Vương nằm ở làng Long Sơn có ranh giới bốn phía giáp  tương ứng với thôn Long Thành trong địa bạ Minh Mạng (1836).

Trong sách Địa danh hành chính Nam Bộ của Nguyễn Đình Tư, Thôn Long Sơn thuộc tổng Long Vĩnh Hạ, huyện Long Thành, phủ Phước Tuy, tỉnh Biên Hoà, triều Tự Trị, Tự Đức. Đầu thời Pháp vẫn thuộc tổng cũ. Đặt thuộc hạt thanh tra Long Thành, rồi Sài Gòn. Từ ngày 05/01/1876 gọi là làng, đổi thuộc hạt tham biện Sài Gòn, Bình Hoà, rồi Gia Định. Từ ngày 01/01/1900 thuộc tỉnh Gia Định. Từ 01/01/1918 thuộc quận Thủ Đức, cùng tỉnh. Ngày 01/01/1928 làng Long Sơn hợp với làng Vĩnh Thuận thành làng Thái Bình. Đến ngày 09/12/1939 hợp với làng Long Bửu, đổi tên thành làng Long Bình [quận Thủ Đức tỉnh Gia Định]. Sau 1956 gọi là xã Long Bình, vẫn tổng cũ, đổi  thuộc quận Dĩ An, tỉnh Biên Hoà. Ngày 10/10/1962 đổi thuộc quận Thủ Đức tỉnh Gia Định. Sau 30/4/1975, thuộc huyện Thủ Đức, thành phố Sài Gòn – Gia Định. Ngày 02/7/1976, Tp Sài Gòn – Gia Định chính thức đổi tên thành thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 06/01/1997, huyện Thủ Đức giải thể, tách làm 3 quận: Thủ Đức, quận 2, quận 9; xã Long Bình thuộc quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. Đến 2019 đổi thành phường Long Bình. Ngày 01/01/2021, chính thức thành lập thành phố Thủ Đức thuộc thành phố Hồ Chí Minh trên cơ sở sáp nhập toàn bộ diện tích và dân số của quận 2, quận 9 và quận Thủ Đức.

Hiện tại (tháng 8 năm 2025), Miếu Long Vương thuộc khu phố II, phường Long Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Phường Long Bình có diện tích 17,61 km², dân số năm 2021 là 25.614 người, mật độ dân số đạt 1.454 người/km². Phường nằm ở phía đông bắc thành phố Hồ Chí Minh, có vị trí địa lý: Phía Đông giáp tỉnh Đồng Nai với ranh giới là sông Đồng Nai; phía Tây giáp các phường Long Thạnh MỹTân Phú và Linh Trung; phía Nam giáp phường Long Phước và phía bắc giáp tỉnh Đồng Nai.

3. Tục thờ Thủy thần ở Nam Bộ  

3.1. Tín ngưỡng

Theo các tài liệu xưa, từ đầu thế kỷ XVII đã xuất hiện lưu dân từ miền Trung vào vùng đất Đồng Nai sinh sống. Những lớp di dân khai phá vùng hoang địa, tạo dựng cuộc sống mới trước những khó khăn, hiểm nguy của đầm lầy, sông nước, rừng hoang, thú dữ “Đến đây xứ sở lạ lùng. Chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng kinh” (Ca dao). Trước vùng đất hoang sơ mênh mông sông nước, lưu dân đang đem theo tín ngưỡng thờ thuỷ thần từ quê hương bổn quán vào vùng đất mới, cầu mong thần nước gia ơn cho họ được nguồn nước trong lành để sử dụng trong cuộc sống, người làm nghề nông thì cầu mưa thuận gió hoà cho mùa màng tốt tươi, người làm nghề hạ bạc (đánh bắt thuỷ sản), nghề thương hồ thì cầu xin thần phù hộ sóng yên, gió lặng…

Tín ngưỡng Thuỷ thần được lưu dân đưa vào miền đất mới phổ biến như: thần ao đầm, thần giếng, thần Rái Cá, thần Rắn, Hà Bá, Đại Càn Tứ vị Thánh nương, Thuỷ Long tôn thần… đặt điệt là tục thờ Long Vương. Long Vương là tên gọi chung cho các vị thần cai quản các vùng biển và đại dương trong thần thoại Trung Hoa và ở Việt Nam, từ xưa dân gian xem nơi nào có nước như ao, hồ, đầm, phá, sông, biển đều có Long Vương. Tục thờ Long Vương có thể là một trong các tục thờ thuỷ thần xưa nhất ở nước ta: Phú Thọ nơi được coi là đất tổ của người Việt và Lạc Long Quân cũng được xem là 1 vị Long Vương. Trong Đại Nam nhất thống chí ghi chép các nơi có miếu Long Vương, cả nước ta lúc bấy giờ chỉ có 5 tỉnh có miếu thờ Long Vương: Hưng Hoá, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Biên Hoà, Định Tường.

3.2. Miếu thờ Long Vương

Chưa có nghiên cứu khảo sát rõ các địa phương Nam Bộ hiện tại, còn có bao nhiêu cơ sở thờ thuỷ thần Long Vương. Theo Đại Nam nhất thống chí thì Nam Bộ chỉ có 2 tỉnh là có miếu thờ Long Vương.

Tỉnh  Định Tường: Miếu Long Vương thờ Nam Hải Long Vương, ở thôn Từ Linh huyện Kiến Hoà. Nam Hải Long Vương, Vua rồng ở biển Nam - một trong Tứ hải Long Vương của người Trung Hoa cũng được người Việt cổ thờ phụng. Theo khảo sát của chúng tôi, thôn Từ Linh xưa kia, nay là ấp Pháo Đài,  Phú Tân, Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang (Cù lao Lợi Quản - cửa Tiểu). Nơi này hiện có miếu Lăng Ông thờ 18 bộ cốt cá Ông. Các nhà nghiên cứu: tục thờ cá Ông (tức cá voi, cá heo, cá nhà táng và các loại cá lớn nói chung) là một tín ngưỡng dân gian vùng duyên hải miền Trung và miền Nam Việt Nam từ Thanh Hóa đến toàn bộ các tỉnh ven biển miền Nam. Đây là tín ngưỡng của cư dân vùng biển, hay còn gọi là vạn chài. Cá Ông ở đây là những con cá voi mà theo ngư dân chính là thần Nam Hải. Có thể đây chính là di tích Miếu Long Vương ở Định Tường xưa, sau bao biến thiên thăng trầm lịch sử, được người dân gìn giữ tôn tạo thờ tự, và đặt lại tên mới là Lăng Ông.

Tỉnh Biên Hoà: Miếu Long Vương thờ Đệ nhất lang, Đệ nhị lang và Đệ tam lang Long Vương. Tục thờ Tam Vị Long Vương có từ rất xưa ở miền ngoài. Vùng La Phù, Đào Xá ở Phú Thọ, vùng Ngã Ba Hạc Thái Bình… Hà Tĩnh hiện có khá nhiều nơi thờ Tam Lang Long Vương. Về Tam Vị Long Vương, sách Nghệ An phong thổ ký chép: “Xưa ở Chỉ Châu có hai vợ chồng ông Mái, mụ Mái đã luống tuổi mà chưa có con. Một hôm người vợ nhặt được ba quả trứng về nhà, chồng đem bỏ vào cái chậu. Ít lâu sau ba quả trứng nở thành ba con rắn, ông bèn thả xuống ngã ba sông, bỗng mưa gió nổi lên ầm ầm lúc sau mới lặng. Nhưng hôm sau thì ba con rắn trở về quấn quýt bên ông bà, ông đi đâu rắn cũng theo đi. Một hôm, ông ra bờ cuốc ruộng, ba con rắn bò lượn xung quanh tỏ ý rất vui vẻ, nhưng không may ông vô tình cuốc nhằm một con làm đứt đuôi. Ba con rắn cùng bỏ đi ẩn dưới vực Đan Hai. Về sau ba con rắn thành Thần được dân Chỉ Châu lập Miếu thờ gọi là Tam Lang Long vương” và đền Tam Lang Long Vương ở Chỉ Châu nay thuộc xã Thạch Lạc, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Di tích này được biết với tên đền Sắc vì tới nay còn lưu giữ được 86 đạo sắc, phần lớn phong cho các vị thần là Ông Cả, Ông Hai, Ông Ba Long Vương. Các sắc phong này có niên đại từ năm Thịnh Đức thứ 5 (1657) thời Hậu Lê đến năm Thành Thái thứ 13 (1901) thời Nguyễn. Ở Nam Bộ, tại Công Thần miếu tỉnh Vĩnh Long, nguyên là miếu Hội đồng tỉnh còn lưu trữ 85 sắc phong cổ; trong đó có 6 sắc phong Trung Đẳng thần cho ba vị: Đệ Nhất, Đệ Nhị và Đệ Tam Long Vương.

Hiện nay, miếu Long Vương thuộc địa giới của khu phố II, phường Long Bình, thành phố Hồ Chí Minh, quanh miếu không có cư dân. Việc quản lý và duy trì các lễ thức tế tự  được ban quản lý đình Thái Bình đảm trách (đình Thái Bình vốn là đình làng Vĩnh Thuận xưa), cách đó khoảng 1 km đường chim bay. Trong đình Thái Bình hiện nay, khu hội đồng nội có hương án Long Vương và bài vị Hoàng Đế. Theo hồi cố của các vị cao niên của địa phương, vào ngày 16/12 âm lịch hàng năm, người dân trong làng cùng long trọng tổ chức nghi lễ rước bài vị Thần cùng sắc phong, đi bộ từ đình làng ra tới cầu Đồng Tròn, sau đó xuống ghe di chuyển từ rạch Đồng Tròn ra sông Đồng Nai, rồi ngược dòng lên miếu Long Vương. Sau cúng bái, tế lễ rồi canh con nước để trở về làng vì thời ấy miếu nằm biệt lập, không có đường bộ để vào nên đi đường sông và phải phụ thuộc vào con nước. Sau bao năm, hiện nay khu đất quanh miếu đã được quy hoạch, và có con đường mòn nhỏ dẫn vào miếu, nên dịp cúng tế bà con đi đường bộ cũng tiện lợi hơn xưa.

4. Tạm kết

Tín ngưỡng thờ Long Vương là loại hình tín ngưỡng đặc biệt của người Việt. Miếu Long Vương tại Biên Hòa xưa – nay thuộc địa phận thành phố Thủ Đức là một trong những nơi hiếm hoi ở Nam Bộ còn lưu giữ tín ngưỡng này. Miếu Long Vương được xây dựng khá sớm, gắn với những sự kiện hình thành và phát triển từng thôn làng ở các địa bàn cư trú nói riêng và vùng đất Đồng Nai – Gia Định nói chung; trong đó có những sự kiện quan trọng trong lịch sử giữ an vùng đất phía Nam và kháng chiến chống Pháp xâm lược lần thứ nhất. Cơ sở tín ngưỡng này gắn với tập quán, tín ngưỡng và duy trì trong các hoạt động tâm linh, tinh thần trong đời sống của cư dân hiện nay. Miếu Long Vương tọa lạc trong cảnh quan mang dấu ấn đặc biệt của thiết chế tín ngưỡng cộng đồng với hàng cây cổ thụ, không gian u nhã, thâm nghiêm và sông nước. Dấu ấn tín ngưỡng và dấu tích kiến trúc hiện tồn của miếu Long Vương cần được các cơ quan về lịch sử, văn hóa nghiên cứu xếp hạng di tích lịch sử nhằm bảo tồn di sản của Nam Bộ./.

Chú thích và tài liệu tham khảo:

1. Lê Quang Định (2003), Hoàng Việt nhất thống dư địa chí – dịch giả Phan Đăng, Nhà xuất bản Thuận Hóa.

2. Trịnh Hoài Đức (2005), Gia Định thành thông chí (dịch giả Lý Việt Dũng, Huỳnh Văn Tới hiệu đính), Nhà xuất bản Tổng hợp Đồng Nai.

3. Quốc sử quan triều Nguyễn (2012), Đại Nam nhất thống chí (bản dịch Hoàng Văn Lâu) Nhà xuất bản Lao Động.

4. Biên Hoà- Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển (1998)- Ban chỉ đạo lễ kỷ niệm 300 năm vùng đất Biên Hoà Đồng Nai. Nhà xuất bản Đồng Nai.

5. Quốc sử quan triều Nguyễn (2007), Đại Nam Thực Lục (tổ phiên dịch Viện Sử Học phiên dịch) Nhà xuất bản Giáo Dục.

6. Nguyễn Đình Tư (2008), Địa danh hành chính Nam Bộ, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.

7. Trích trong: https://congdankhuyenhoc.vn/tam-lang-long-vuong-nhung-nguoi-con-theo-cha-lac-long-quan-xuong-bien-179220723214000902.htm; (truy cập ngày 20/11/2023)

8. Trích trong: https://ttltls.vinhlong.gov.vn/xem-chi-tiet-tin-tuc/id/212850 (truy cập ngày 21/11/2023)

9. Bản đồ diễn tiến hoạt động quân sự mới nhất ở Nam Kỳ - Tuần báo Illustration- Paris số ra ngày 01/3/1862

10. Carte Generale de la Cochinchine Francaise, ca 1873 (General Map of French Cochinchina)

11. Arrondissement de Saïgon 1885 - Bản đồ địa hình Hạt tham biện SAIGON 1885

(Điều chỉnh, bổ sung : Trấn Biên 08.08.2025)


.

Long Vương Điện

(Ảnh minh hoạ copy internet)

Miếu Long Vương năm 2023















Chủ Nhật, 10 tháng 12, 2023

 TRẬN THÀNH BIÊN HOÀ NĂM 1861- LÁ THƯ TỪ SÀI GÒN CỦA PH. AUDE.

Trận Thành Biên Hòa cuối năm 1861 và số phận của những người tù công giáo năm xưa cũng được một sĩ quan quân y có mặt trong trận ấy: Tiến sĩ Aude- bác sĩ giải phẫu hạng 3 của hải quân Pháp trong chiến dịch đánh chiếm nam kỳ, chứng kiến và viết thư kể cho người bạn ở quê nhà ở vùng Alberta- Aix nông thôn miền nam nước Pháp.

Sài Gòn, tàu Nữ Hoàng Eugénie ngày 28-12-1861

(tức 10 ngày sau khi liên quân chiếm được Thành Biên Hoà)

Féraud thân mến,

Tôi không thể viết cho bạn bằng chuyến tàu thư cuối cùng nhưng tôi không muốn tàu đi hôm nay mà lại không gửi cho bạn những tin sau cùng; bạn biết rằng sau khi Đô đốc Bonnard đến thì việc lên đường về Pháp của chúng tôi đã bị hoãn lại và phụ thuộc vào việc chiếm Bien Noa [Biên Hoà]. Vậy chúng tôi phải chờ, tất cả phải ở lại ít nhất là cho đến cuối tháng Ba, vì vẫn nghĩ rằng cuộc hành quân đánh chiếm Bien Noa [Biên Hoà] chỉ có thể thực hiện vào cuối tháng Giêng, khi tất cả toán quân từ Pháp đến đã tập hợp đầy đủ, nhưng đây là điều mà người ta đã thông báo trước là lấy Bien Noa [Biên Hoà] không cần đội quân Tourcos, hầu như không một người nào và những sự cố lại đi một cách nhanh như vậy, mà bây giờ chúng ta lại có quyền nói với Đô đốc:

-A chà! Ông đã nói với chúng tôi rằng chúng tôi sẽ lên đường sau vụ Bien Noa [Biên Hoà], chúng tôi đã chờ!

Những chiến binh mang quần đùi đỏ, có râu mèo xoắn lên và có cổ họng bị cứng rắn bởi rượu áp-xanh, đã có dự tính lãnh danh dự chiếm lĩnh Bien Noa [Biên Hoà] một cách huy hoàng, những quân lính An-nam đã khôn lanh, họ muốn quấy rầy quân Pháp, nên đã di tản hết.

Và đây, một vài chữ nói về chi tiết của cuộc chiến hay đúng hơn là của cuộc “dạo chơi bằng quân sự”.

Bạn biết hoặc không biết vùng Nam Kỳ mà chúng ta thèm muốn đã một năm nay; thì bây giờ chúng ta đã có trong tay, gồm sáu tỉnh mà tôi không thể nói cho bạn biết hết những cái tên rất khó, và khó có thể đọc đúng trong số đó có tỉnh Bien Noa [Biên Hoà]. Chỉ còn tỉnh này là chưa nằm trong tay chúng ta. Thật khó lòng xâm chiếm tỉnh này vì nó có biên giới là những dãy núi tạo thành vành đai thiên nhiên bảo vệ rất dễ. Ngôi làng, hay đúng hơn là thành phố Biên Hòa, tỉnh lị của toàn tỉnh, được bảo vệ bởi một vòng thành trang bị không ít súng đại bác và được che chở bên ngoài bởi những công trình có giá trị chiến lược nào đó.

Có 2 con đường dẫn tới Biên Hoà, đường sông và đường bộ. Làm chủ được hai con đường này là điều quan trọng, người An-nam đã biết rằng những cố gắng của ta là chú trọng vào điểm này, nên đã xây dựng ở ngõ vào sông nối liền Biên Hòa và Sài Gòn, một rào chắn vững chắc, các pháo hạm vượt qua vùng này; sau rào cản này người ta còn thấy nhiều rào cản khác không vững chắc như thế, nhưng chúng đã gây trở ngại nghiêm trọng, tất cả các thành lũy này đều được bảo vệ bởi những đồn đóng hai bên bờ sông [1].

Ý đồ của Đô đốc, khi ông điều khiển cuộc tấn công, là dập tắt cho được hỏa lực của các đồn đầu tiên, là xâm nhập phá hàng rào đầu tiên và dọn sạch khúc sông ở đoạn này để cho phép các tàu chiến vượt qua. Ông đã đi xa hơn điều ông muốn. Các pháo hạm hạng 1 Alarme, Avalanche, Fusée, Mitraille, và các pháo hạm nhỏ số 16, 19, 31, thả neo đậu ở khoảng 10 sải cáp, cách đập rào cản người ta khởi sự khai hỏa, người An-nam đã đánh trả rất hăng và nhiều quả đạn của họ điều khiển rất chính xác đã rớt lên tàu chiến của chúng ta; ít ra nữa, vì khoảng cách gần, họ đã gây tổn thất cho chúng ta, trong khi giàn trọng pháo của ta mạnh hơn, cũng đã có lúc bị thiệt hại lớn. Pháo hạm Alarme, chiến thuyền đậu gần bãi trọng pháo của địch đã có một người bị giết, trưởng buồng lái và một thủy thủ bị thương nặng, buồm chão và vỏ tàu bị tổn thất nhẹ. Sau hai giờ bắn nhau, hỏa lực của địch đột ngột ngưng lại. Quân An-nam đã thấy một cánh quân khoảng 500 người, do Đại tá hải quân Le Bris chỉ huy, Đại tá đi sau toán quân này và dẫn họ đi vào giữa hỏa lực của tàu chúng tôi với hỏa lực của các đại đội đã đổ bộ của chúng ta; họ không thể chống cự với chiến thuật như vậy, bị vượt qua là điều dễ nhận thấy, họ bị động trước chiến thuật này để thả lỏng các đồn ở ngõ vào nhánh sông Biên Hòa, từ ngày 16 đến ngày 21, chúng ta đã phá hủy rào cản, và như vậy đã đạt được mục đích đặt ra. Ít ra nữa, ta đã vào rất xa để biết được quân An-nam đã rút về đâu, nhưng không hề gặp họ; tiến đến tận dưới chân thành Biên Hòa và chỉ thấy những cột khói dày bốc lên từ trung tâm thành phố; tiến thêm nữa, nhưng không gặp được ai cả; thành bị bỏ ngõ; những tòa nhà chính đều bị đốt. Trong thành người ta tìm thấy xác của gần 300 người Thiên Chúa giáo An-nam bị đốt cháy hoặc bị nhiều vết thương rùng rợn. Đây là hành động cuối cùng của những kẻ tôn sùng thần tượng và sự man rợ của một dân tộc lánh xa đức tin Thiên Chúa giáo và văn minh châu Âu. Nhiều nạn nhân còn thở được, họ tin tưởng vào sự săn sóc của các y sĩ giải phẫu của chúng ta và được trở về Sài Gòn hoặc được đối xử như người anh em ruột của chúng ta[2].

Trong thành người ta tìm được 30 khẩu đại bác trong đó có 18 khẩu bằng đồng. Quân lính ta đã làm chủ cứ điểm quan trọng này, tỏa ra đánh toàn xứ, khắp mọi hướng để tìm quân An-nam, nhưng họ đã rút vào trong núi, và từ đây, thật dễ dàng cho chúng ta xây dựng toàn đường ranh giới được phòng thủ một cách chắc chắn và dễ dàng.

Trong khi những biến cố ấy đang xảy ra ở Biên Hòa, thì có vài ba toán du kích phân tán vào trong các nơi ta đã chiếm cứ tìm cách làm yếu ta bằng cách tấn công các đồn bót lẻ mà chỉ có một ít quân canh phòng yếu trấn giữ. Trong một con rạch, quân An-nam đã đốt một "lorcha" (một pháo thuyền có trang bị hai đại bác), giết chết 13 người của ta; ở Candjioe (Cần Giờ, Dịch giả chú), họ đã tấn công một đồn làm trung úy hải quân Dumont bị thương vì một cú lao đâm nhẹ; ở Tram- ban (Trảng Bom, Dịch giả chú), họ đốt một kho lương thực; nhưng khắp nơi họ đã nhận những mất mát đáng kể, và từ tám ngày nay không còn vấn đề quân du kích đó nữa.

Đó, bạn thân của tôi, điều mà tôi phải báo cho bạn biết và điều thể có, những điều tiếp theo tốt nhất ấy mà, đối với đích thân chúng tôi. Chiếc tàu lộng lẫy của chúng tôi đã có cơ may trở lại Pháp một ngày rất gần đây; vì chiếc tàu và những người trên tàu hiện nay trở thành vô dụng rồi; khắp nơi người ta nghĩ và nói rằng cuối cùng ông Đô đốc muốn vâng lệnh mà ông đã nhận để phái chúng tôi đi vào khoảng cuối tháng Giêng, chúng tôi sẽ đi Sài Gòn. Chúng tôi sẽ đến Chebourg vào những ngày cuối tháng Ba, và cuối cùng tôi có thể Cử hành Lễ trong đoàn của bạn vào tháng Năm, đúng sau thời gian vắng mặt hai năm!

Tôi phải báo cho bạn biết một điều, và vì đó mà tôi phải nhắc cho bạn nhớ bạn đã nói với tôi trong lá thư cuối của bạn đến tay tôi ở đây đã một tháng rưỡi. Điều bạn nói là: Germano đã lấy làm xấu hổ cách đối xử của anh ta đối với sự lưu tâm của tôi, và anh ta đã hứa với bạn là viết cho tôi 100 trang thư không hơn không kém; sáng ngày ra đi, bạn nhắc lại lời hứa đó cho anh ta biết, anh ta đã trả lời bạn rằng anh ta chỉ còn ngày thứ 25, nhưng chắc chắn do chuyến tàu mới đây, anh ta sẽ không có cách làm dịu cơn thịnh nộ đúng đắn của tôi, vậy mà chuyến tàu thư tiếp theo, rồi một chuyến nữa cũng đã cập bến Sài Gòn mà chúng không mang cho tôi ít nhất một chữ nào của Germano, theo cách anh đã làm là đã không viết thư cho tôi từ 25-6 vừa qua, tôi không lưu ý đến điều đó nữa, trong lúc nổi điên, tôi đã viết cho Germano một cái thư, thư này - tôi nghĩ thế sẽ chỉ cho anh ta biết tôi đã phật lòng vì cách xử sự của anh ta. Thư của tôi đối với bạn, nếu anh ta cho bạn xem lá thư này, hơi khô khan và có hơi sáng sủa, nhưng tôi vẫn không hối tiếc và vẫn gửi đi vào sáng mai đồng thời với thư này.

Bạn hãy viết cho tôi, bạn thân mến ạ, mặc dầu theo tất cả mọi khả năng, hồi âm của bạn cho thư này sẽ không đến tay tôi ở Sài Gòn. Như bạn biết rồi đấy, chỉ cần một phản lệnh mới là tôi không nhận được những lá thư như trước cho nên tôi sẽ gửi thư theo chuyến tàu cuối cùng đi cuối tháng Giêng và đầu tháng Hai. Khi nào chúng tôi lên đường một cách chắc chắn thì sẽ viết cho bạn ngay để ngưng thư của bạn và đừng vội gửi cho tôi như trước.

Tình trạng sức khỏe của tôi vẫn tuyệt vời và viễn tượng về một cuộc trở về nhà, nhanh chóng làm cho năng lực của tôi tăng lên một cách đáng kể.

Chào tạm biệt, bạn thân của tôi, hẹn ngày mai sẽ gặp lại; vì tôi bạn hãy hôn tất cả các bạn bè tốt của chúng ta như: Drujon, Chabrier, Goulin, Evariste, Roux và kể cả Germano, mặc dầu có sự phản bội của anh ta. Mong rằng Hội Cử hành Lễ sửa soạn khánh thành một cách xứng đáng pho tượng người Nam Kỳ mà tôi dành cho nó và nó sẽ là biểu tượng cho niềm tin hoàn toàn của người hành lễ đầy nhiệt tình. Pho tượng này sẽ được đặt một mình trên bàn vào ngày khánh thành và tất cả mọi người đi qua dưới tượng người Nam Kỳ đặt cao ở trên đầu.

Bạn hãy nói với Charles tôi viết dài cho thân phụ tôi để gửi theo chuyến tàu thư này, và bằng cách đọc thư ấy và thư này, sẽ biết được về tình hình của tôi.

Chúng ta hãy Cử hành Lễ! Cử hành Lễ! Cử hành Lễ!

Bạn cũ của bạn,

PH.AUDE

Hãy gửi cho báo Mémorial, nếu bạn muốn làm thế, những thông tin mà tôi gửi cho bạn nói về cuộc viễn chinh.

Trích : Những người bạn Cố Đô Huế B.A.V.H  tập XIX năm 1932- Hà Xuân Liêm Dịch, Nhị Xuyên hiệu đính. NXB Thuận Hoá 2006.

GHI CHÚ:

[1]Người An-nam hiểu rõ hơn về điểm chiến lược này, nó bảo đảm con đường đi Huế, nên đã tập trung tất cả các phương tiện phòng thủ có thể gây khiếp đảm thật sự cho những đạo quân thiện chiến; một doanh trại bảo vệ cho nơi này gồm 3.000 người đã được xây chính giữa đường Sài Gòn Biên Hòa [đồn Mỹ Hoà], trên đường bộ; về đường sông được phòng thủ bởi những bộ cọc nhà sàn trên sông, chín đập rào cản và một đập bằng đá mà hiện người ta đang còn thấy (1932), khi nước triều thấp, những di tích còn lại trước Biên Hòa tích khoảng nửa dặm; các đồn lũy đóng hai bên bờ sông làm trọn vẹn hệ thống phòng thủ. Những người Thiên Chúa giáo bất hạnh đã bị cầm tù trong thành này hơn bốn trăm người đã bị cưỡng bức và làm việc xây thành lũy cao lên để chống lại những người giải thoát họ.

(L.F.Lowet: Xứ Nam Kỳ về mặt tôn giáo 11, tr.301, 302).

[2]  Bị cầm tù ở trong Thành Biên Hoà có gần 600 người thiên chúa giáo, một số bị bắt từ trước ở Sài Gòn, và bị giải về đây trước khi người Pháp chiếm Sài Gòn ngày 18-02-1859; một số khác bị bắt trong các làng Thiên Chúa giáo ở tỉnh Biên Hòa. Nhiều người trong số những người bất hạnh ấy đã bị chặt đầu trên một ngọn đồi nhỏ gọi là Đất Sỏi, cách đồn lũy khoảng 5 phút đi đường. Khi người Pháp đến, chiều ngày 15-12-1861; nhà chức trách của tỉnh trước khi bỏ trốn, đã cho đốt tất cả các trại giam tù.

Những người lính được trang bị vũ khí cây lao, đã ném vào những lửa đang cháy rực những người cản đường họ. Chỉ có năm người Thiên Chúa giáo, trong bốn trăm lẻ bảy người, qua được chết chóc. Trong số người bị thương mà Ph.Aude nói, có một cô gái đã trèo lên cây, cao hết sợi xích. Cô ấy bị cháy hai đùi chân, được mang về bệnh viện Sainte Enfance ở Sài Gòn. Cô ta đã bị cắt cụt cả hai chân và cũng chỉ sống sau cuộc giải phẫu ít ngày. Cũng có một người đàn bà mà cái đầu một phần đã bị cắt lìa khỏi thân bởi một nhát lao và chỉ nằm chờ chết. Bà ta lại có thể thể sống và đã còn sống được mấy năm dài.

(L.F.Lowet: Xứ Nam Kỳ về mặt tôn giáo 11, tr.290, 291,292)

Giáo dân bị thích chữ Tả đạo vào mặt (nguồn internet)

Nghĩa trang xứ Biên Hoà nơi cải táng mộ hợp táng giáo dân bị đố cháy ngày 16/12/1861
 

Mộ hợp táng giáo dân bị đố cháy ngày 16/12/1861
  • Lê Ngọc Quốc- Biên Hoà

    Phone: 0903906956

 





 

 

Thứ Tư, 15 tháng 11, 2023

 MIẾU QUAN ĐẾ BIÊN HOÀ

(Chùa Ông, Thất Phủ Cổ Miếu)

MỘT SỐ PHÁT HIỆN MỚI QUA ĐỐI CHIẾU CÁC THƯ TỊCH CỔ  

 Lê Ngọc Quốc*

Thất phủ cổ miếu ngày nay (ảnh từ Internet)

Theo thư tịch cổ đã ghi nhận: Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh lập phủ Gia Định vào năm 1698 thì trước đó vào năm 1679, đô đốc Trần Thượng Xuyên đã vâng mệnh Chúa Nguyễn Phúc Tần (Chúa Hiền), đem quân bản bộ vào kinh dinh xứ Bàn Lân (Biên Hoà ngày nay) [1].

Thưở ấy, tại một cù lao lớn trên sông xứ Bàn Lân (nay là cù lao Phố), tổng binh họ Trần đã cho khai thác trên quy mô lớn: mở mang đất đai, lập thành phố chợ, xây dựng đường sá, cầu đò, bến cảng, kho bãi, tửu điếm, khách sạn… Kêu gọi thương nhân Trung Hoa, người Tây, người Nhật, người Chà Và… các nơi đến mua bán giao thương. Chẳng bao lâu, dưới sự quản lý, tổ chức linh hoạt; đô đốc Trần Thượng Xuyên cùng các lưu dân đã biến vùng đất hoang sơ trở thành thương cảng, trung tâm thương mại và giao dịch quốc tế của cả vùng Đồng Nai, Gia Định.

 Lưu dân người Hoa đi tới đâu, họ cũng mang theo tín ngưỡng thờ Quan Công và xem Quan Công là một trong ba vị thần tối thượng cùng với Ma Tổ (Thiên Hậu Thánh Mẫu) và Phúc Đức Chánh Thần trong đời sống tinh thần của họ. Sau khi ổn định ở vùng đất mới, họ cùng nhau tạo dựng miếu thờ Quan Công (Quan Đế miếu).

1.    1. Đôi nét về miếu Quan Đế Biên Hoà

Địa chỉ Miếu: số 48 Đặng Đại Độ, phường Hiệp Hoà, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Thất Phủ cổ miếu, tên gốc là Quan Đế miếu, tạo dựng vào năm 1684 tại Cù lao Phố, là cơ sở văn xã đầu tiên của cộng đồng người Hoa ở nam bộ. Chính vì vậy nên việc tìm hiểu về di tích này là một đóng góp quan trọng cho việc tìm hiểu lịch sử quá trình hình thành và phát triển văn hoá của vùng đất nam bộ [2].

 Thất phủ cổ miếu ngày nay toạ lạc trên một thế đất đẹp phía tả ngạn sông Đồng nai; rộng gần 3.000m2, được ngăn cách với bên ngoài bởi vòng tường gạch. Mặt tiền miếu hướng tây nam nhìn ra sông lớn. Tất cả đã tạo cho ngôi miếu một quang cảnh thoáng mát, nên thơ nhưng cũng thật thâm u, cổ kính. Miếu có 3 cổng ra vào, cổng chính nhìn ra sông Đồng Nai xây theo lối tam quan, biển cổng khắc chữ Hán 七府古- Thất Phủ Cổ Miếu. Một cổng phụ biển đề chữ Hán 七府五行廟- Thất phủ Ngũ Hành Miếu, ở mặt tường bên phải sân miếu, cổng phụ còn lại biển đề 七府觀音殿- Thất Phủ Quan Âm Điện [2].

2. Miếu Quan Đế qua các tư liệu lịch sử

2.1. Phủ Biên tạp lục

Theo sách Phủ Biên Tạp Lục biên soạn năm 1776 có ghi chép tổng hợp về Đàng Trong nguồn đa số từ thư tịch trong tàng thư ở Phú Xuân.

Trong mục thuế đò, phủ Gia Định có ghi chép:

1/ Tuần Đồng Tranh thuộc Phủ Gia Định: thuế 35 quan 5 tiền.

2/ Chợ Lạch Cát: thuế 81 quan.

3/ Đò Điện Quan Đế: thuế 373 quan.

4/ Đò dọc từ An Lâm đến Sài Côn: thuế 89 quan.

5/ Đò chợ Đồng Nai: thuế 60 quan.

6/ Đò nhỏ Lò Giấy: thuế 55 quan.

7/ Đò chợ Dinh cũ: thuế 30 quan 2 tiền 1

Như vậy trước năm 1775, thời điểm Thuận Hóa – Phú Xuân bị Chúa Trịnh chiếm, ở khu vực quanh Cù lao Phố có 3 bến đò, 1 chợ được triều đình lập sổ bộ đánh thuế:

- Chợ Lạch (Rạch) Cát (nay là khu vực đầu cầu Hiệp Hoà).

- Bến đò điện Quan Đế (nay là khu vực giữa Chùa Ông - cầu Gành).

- Bến đò chợ Lò Giấy (nay là khu vực bến nước sau đồn công an phường Bửu Hoà).

- Đò dọc từ An Lâm (*)  nay là khu vực bến Đò Kho (nay là khu vực bến Đò Kho Hiệp Hoà- An Bình).

  • So sánh các địa phương khác trong phủ Gia Định lúc bấy giờ:

- Thuế 3 sở : chợ Phú Lâm, chợ Lò Luyện, chợ Quán Bình Khang ở Sài Côn (vùng Chợ Lớn ngày nay): 110 quan.

- Đò Sài Côn (vùng Chợ Lớn ngày nay): 178 quan.

- Đò Rạch Cát (vùng Chợ Lớn ngày nay): 78 quan[1].

  • So với số tiền thuế hàng năm của chợ và đò ở khu đô thị cổ Hội An ghi chép trong chương này thấp hơn ở Cù Lao Phố:

- Đò Thanh Hà (ở Hội An): 190 quan 5 tiền.

- Chợ Hội An: 49 quan[2].

Qua đó có thể thấy rằng: bến đò điện Quan Đế (Nông Nại đại Phố) thuế năm là 373 quan. Đây là mức thuế cao nhất phủ Gia Định lúc bấy giờ, thậm chí hơn Hội An, Đà Nẵng và ngang tầm 2 bến đò ở Huế là Phú Xuân Thượng, Phú Xuân Hạ (2 bến này, gộp thuế năm là 684 quan)[1].

Vì thế trong Đại Nam nhất thống chí đã mô tả sự hưng thịnh của Cù Lao Phố lúc bấy giờ:“…Trần Thượng Xuyên chiêu nạp được người buôn nhà Thanh, xây dựng phố chợ đường xá, nhà ngói lâu đài san sát ở trên bờ sông, nối liền năm dặm, chia thành ra ba đường phố: Đường phố lớn, giữa phố lát đá trắng, đường ngang lát đá ong, đường nhỏ lát đá xanh, đường rộng bằng phẳng, người buôn tụ tập đông đúc, tàu biển, ghe sông đến đậu neo chen lấn lẫn nhau, còn những nhà buôn to lớn ở đây là nhiều hơn hết, làm thành một chốn đại đô hội...” [2]

2.2. Hoàng Việt nhất thống dư địa chí

Hoàng Việt nhất thống dư địa chí biên soạn năm 1806, là bộ sách ghi chép tường tận về hệ thống giao thông đường bộ lẫn đường thủy của nước ta đầu thế kỷ 19. Trong quyển II, mục Đường trạm bộ và thuỷ dinh Trấn Biên - Phụ chép về đường bộ có đoạn:

…Hai bên đều là ruộng vườn, dân cư thưa thớt, chuyên trồng dâu và mía, đến lị sở dinh Trấn Biên, thuộc địa phận thôn Tân Lân, tổng Tân Chánh, huyện Phước Long. 52 tầm [1 tầm khoảng 1.8~ 2.3 mét], hai bên là nhà quan và trại quân, dân cư đông đúc, đến chợ thôn Tân Lân [chợ Biên Hoà ngày nay], tục gọi là chợ Bàn Săng, chợ này có quán xá rất đông đúc, có rất nhiều người buôn bán.

728 tầm, hai bên đường là nhà quan và trại quân, dân cư đông đúc đến bến đò Phước Lư, sông rộng 80 tầm, tục gọi là bến đò Rạch Cát. Nước ở đây ngọt, khi nước lên sâu 5 tầm, nước xuống sâu 4 tầm, rồi qua bến Cù Lao Phố, ngày trước ở đây có cầu bắc ngang, cửa nhà phố xá của cư dân đều lợp ngói san sát nhau, đến thời Tây Sơn dân cư chạy tán loạn, chỉ còn lại ruộng vườn.

90 tầm, hai bên đường là nhà tranh nhà ngói xen nhau, dân cư rất trù mật, đến bến đò, sông rộng 164 tầm, tục gọi là sông Đồng Nai, bến đò tục gọi là bến đò Cù Lao Phố (*). Nước sông này vào mùa xuân hè có nắng to thì trong và ngọt, đến mùa thu đông do mưa lụt nên hơi đục, khi nước lên thì sâu 5 tầm, nước xuống thì sâu 4 tầm. Thượng lưu sông này tức đầu suối Ba Can, hạ lưu tức ngả ba Nhà Bè, đến chợ thôn Bình Tiên, tục gọi là chợ Lò Giấy, thời Tây Sơn có đồn đóng ở đây, nên còn gọi là Chợ Đồn, chợ này có quán xá rất đông đúc…” [3]

Trong quyển VII ghi chép về dinh Trấn Biên, ghi chép hướng từ trước cửa trấn thành xuôi về hướng hạ lưu sông lớn [sông Đồng Nai]:

“…Bên trái sông lớn có cồn tức Cù Lao Phố, cồn dài 1.580 tầm, bề ngang 1.070 tầm, ở đây đường phố và nhà ngói liền nhau, tàu buôn đậu kín bến, đến thời Tây Sơn thì nơi này trở thành ruộng vườn.

50 tầm, hai bên bờ đều có ruộng vườn và dân cư nhưng thưa thớt, đến bến đò chợ thôn Bình Tiên [nay là Bình Long- Bửu Hoà], sông rộng 168 tầm, khi nước lên sông sâu 5 tầm, nước xuống sâu 4 tầm, tục gọi là chợ Lò Giấy, từ khi Tây Sơn đóng đồn ở đây, thì đổi tên là bến đò Chợ Đồn, chợ có quán xá đông đúc, có đò ngang đưa qua Cù Lao Phố…” [1]

Tra cứu phần các bến đò ở Trấn Biên trong 2 tài liệu Phủ Biên Tạp Lục (1776) và Hoàng Việt nhất thống dư địa chí (1806), chúng tôi cho rằng bến đò ngang từ bến đò Chợ Đồn [bến đò chợ Lò Giấy] qua Cù Lao Phố có tên là bến đò Cù Lao Phố ; đây chính là bến đò Điện Quan Đế trong ghi chép của Phủ Biên Tạp Lục.     

2.3. Gia Định thành thông chí 

Gia Định thành thông chí là một quyển địa chí do Trịnh Hoài Đức (1765-1825) biên soạn. Sách viết về vùng đất Gia Định (khoảng năm 1820), đây là một sử liệu quan trọng về Nam Bộ thời nhà Nguyễn.

Trong quyển 6 - Thành Trì chí, mục Miếu Quan Đế chép:

Nằm về phía nam cù lao Đại Phố, phía đông ngã ba đường, mặt trông ra Phước Giang, điện vũ nguy nga, tượng đắp cao hơn một trượng, phía sau là điện quán Quan Âm, phía ngoài có tường gạch bao quanh, bốn góc có 4 con lân bằng đá ngồi xổm (*). Cùng với hội quán Phúc Châu đầu phía tây đường lớn và hội quán Quảng Đông ở dưới phía đông là 3 cái đền lớn. Từ loạn Tây Sơn nhân dân ly tán, 2 đền kia bị hoang phế, duy miếu nầy là của chung phố nên riêng được giữ gìn tồn tại. Nhưng đến mùa thu năm Kỷ Mùi (1799) Thế Tổ Cao Hoàng thứ 22 [Nguyễn Ánh lên ngôi Chúa tại Gia Định năm 1778], ở Trấn Biên có lụt lớn, tượng bị nước ngâm rã mục rường cột và mái ngói trải lâu năm nên cũng đã hư mục. Năm Đinh Sửu (1817) niên hiệu Gia Long thứ 16, người làng họp bàn trùng tu nhưng không đủ sức, nhờ tôi thần đây, đứng ra làm chủ việc ấy, vì cho thần là người sở tại của bản quán này. Ban đầu tôi thần cũng vì người mà miễn cưỡng nhận lời cho họ vui lòng, mà lòng thì vẫn chưa quả quyết. Đến khi dỡ miếu, trên cây đòn dông chính có đóng phụ vào một tấm ván, tuy mối mọt đã ăn mòn nhưng chữ khắc vẫn còn rõ, chỉ vì muội khói hương đèn lâu ngày làm tối mờ. Bảo nhẹ tay chùi rửa rồi xem kỹ, thì thấy nước sơn vẫn dày dặn bền bỉ, nét chữ rõ ràng, mặt trước kê tên 8 người chủ hội, trong ấy có tên họ ông nội của tôi thần, kỳ dư còn tên nhiều người nữa, đều không biết đó là ai, mặt sau khắc: ngày tốt tháng 4 năm Giáp Tý, niên hiệu Chính Hòa thứ 5 (1684). Cây đòn dông bên trái có một tấm ván khắc tên 11 người chủ hội, trong ấy có tên họ cha tôi thần, mặt sau khắc: ngày tốt tháng 2 năm Quý Hợi niên hiệu Cảnh Hưng thứ 4 (1743) nên tôi thần bàng hoàng hồi lâu, trong lúc đó có đông người dành xem, rốt lại tấm ván ấy liền tự rã ra, tôi thần đem tới trước miếu khấn vái rồi đốt đi. Tôi thần chạnh nghĩ rằng: thần linh với nhà tôi thần đã 3 đời có túc duyên, tôi thần này đâu dám không hoàn thành ước nguyện tha thiết của đời trước? Nên tôi thần cố kêu gọi mọi người cùng làm, sửa mới đắp lại pho tượng, sửa sang đồ thờ phụng, nay cũng đã tạm đầy đủ. Vậy xin ghi vào đây”. [1]

Ngày nay chúng ta được biết lịch sử miếu Quan Đế ở Cù Lao Phố xây dựng từ năm 1684, trùng tu lần 1 vào năm 1743, và tái thiết năm 1817; là từ tài liệu chép trong Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức.

Một chi tiết khác được đề cập trong Gia Định thành thông chí như sau:

Tháng 4 mùa hạ năm thứ 32 Kỷ Mùi (1679)… quan Tổng binh thủy lục trấn thủ các xứ ở Long Môn thuộc Quảng Đông nước Đại Minh là Dương Ngạn Địch và Phó tướng Hoàng Tấn, quan Tổng binh trấn thủ các châu Cao, Lôi, Liêm là Trần Thắng Tài, Phó tướng Trần An Bình dẫn quân và gia nhân hơn 3.000 người cùng chiến thuyền hơn 50 chiếc, chạy sang nước Nam nguyện được làm dân mọn…, triều đình mới tổ chức khao đãi ân cần, chuẩn y cho giữ nguyên chức hàm, phong cho quan tước rồi lệnh cho tới Nông Nại (Đồng Nai) làm ăn, gắng sức khai thác đất đai. Mặt khác, triều đình còn hạ chỉ dụ cho Quốc vương Cao Miên (Thủy Chân Lạp) biết việc ấy để không xảy ra chuyện ngoài ý muốn. Được lệnh, các ông Dương, Trần vào Kinh tạ ơn rồi phụng chỉ lên đường. Bọn tướng Long Môn họ Dương đem binh thuyền tiến nhanh vào cửa Xoài Rạp, và cửa Đại cửa Tiểu (thuộc trấn Định Tường) dừng trú tại xứ Mỹ Tho. Bọn tướng các xứ Cao, Lôi, Liêm họ Trần thì đem binh thuyền tiến vào cửa Cần Giờ rồi đồn trú tại xứ Bàn Lân thuộc Đồng Nai (nay là Biên Hòa)”. [2]

Định cư được một thời gian ngắn thì nhóm lưu dân cùng chung sức xây dựng Miếu Quan Đế, thờ Quan Vân Trường – Ông là một vị thánh nhân có tầm ảnh hưởng sâu rộng đối với cộng đồng, là hình tượng đại diện cho sự uy nghiêm, thịnh vượng và chính trực.

Lúc bấy giờ ngoài hai nhóm lưu dân nhà Đại Minh, được chính sử ghi chép trên thì vùng đấy Thuỷ Chân Lạp này đã có lưu dân từ nơi khác thâm nhập. Họ có thể là những cố nông đi tìm đất mới, tội đồ bỏ trốn, ngưới tránh sưu thuế nặng nề, trốn binh dịch; là những người thích phiêu lưu, mạo hiểm và cả những nhóm dân Công giáo bị chánh quyền đương thời bức đạo, đe dọa tính mạng, nên bỏ chạy vào đây, nơi còn hoang vắng, thoát vòng cương tỏa để giữ lấy đức tin.

Trong 1 bản đồ mang tên: “Giáp Ngọ niên bình Nam đồ” [3], được các nhà nghiên cứu gần đây khảo cứu. Thông tin trong bản đồ ghi nhận vùng này, [hậu bán thế kỷ 17] lúc bấy giờ có hai nhóm người Hoa từ Quảng Đông và Phúc Kiến, định cư bên hai bờ sông Tiền, và có sự hiện diện của ba thuyền lính Quảng Nam trú đóng gần Thành của phó Vương Nặc Nộn ở Sài Côn [vùng Chợ lớn ngày nay].

3. Miếu Quan Đế qua các thời kỳ

3.1. Xây dựng và trùng tu, tái thiết

Theo tài liệu của Ban Trị sự Thất Phủ cổ miếu [2], cơ sở tín ngưỡng này được xây dựng, trùng tu, tái thiết qua nhiều thời kỳ:

1/ Xây dựng năm Giáp Tý – 1684.

2/ Trùng tu năm Quý Hợi – 1743 (lần thứ 1).

3/ Đại trùng tu năm Đinh Sửu – 1817 (lần thứ 2).

4/ Trùng tu năm Mậu Thìn – 1868 (lần thứ 3).

5/ Trùng tu năm Giáp Ngọ – 1894 (lần thứ 4).

Sau đó trùng tu Quan Âm Các (phía sau miếu) năm 1927, tiếp sau là các đợt tu sửa nhỏ, trang trí nội thất nhiều lần 1944, 1947…

Từ sau năm 1975 đến trước năm 2005, Thất Phủ cổ miếu gần như không được tu sửa gì lớn, nếu có thì chỉ xử lý mối mọt, sơn mới tường, tượng thờ, bao lam, hoành phi, liễn đối với nguồn kinh phí không đáng kể.

Đến năm 2005 – 2006, Quan Âm Các được xây dựng mới toàn bộ theo kiến trúc truyền thống của người Trung Hoa.

6/ Đại trùng tu năm Mậu Tý – 2008 (lần thứ 5)

Ban Trị sự Thất Phủ cổ miếu và bốn bang người Hoa Biên Hòa tiến hành đại trùng tu toàn bộ ngôi miếu với kinh phí trên 9 tỷ đồng (thời giá năm 2008). Nguồn kinh phí trùng tu được xã hội hóa từ cộng đồng người Hoa và người Việt ở Biên Hòa (Đồng Nai), Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương cùng các tỉnh thành lân cận; một số người Hoa ở Hà Nội và các tỉnh phía Bắc cũng tham gia đóng góp.

3.2. Khảo tả.

1-Xây dựng năm Giáp Tý – 1684.

Khởi thuỷ do 8 người hội chủ bang hội trong đó có ông nội của quan Trịnh Hoài Đức cùng một số người khác đứng tên cho công trình xây cất miếu Quan Đế.

2- Trùng tu năm Quý Hợi – 1743 (lần thứ 1)

Sau 59 năm thì miếu được trùng tu, trong 11 người hội chủ bang hội có cha của quan Trịnh Hoài Đức.

3- Đại trùng tu năm Đinh Sửu – 1817 (lần thứ 2)

Biến loạn chiến tranh, Cù lao Phố bị tàn phá khốc hại, mặc dù còn tồn tại do là miếu chung của Phố, nhưng lúc ấy dân chúng xiêu tán tứ phương, rồi tiếp đến trận lụt năm 1799, khiến miếu bị hư hại nặng nề.

Trong Hoàng Việt nhất thống dư địa chí (1806) ghi chép về dinh Trấn Biên; ngoài các di tích cổ được liệt kê: Điện Văn Thánh ở Bình Thành, Tân Lại; Chùa núi (Bửu Phong tự) ở thôn Bình Điện, miếu Quan Đế ở thôn Bình Thảo chợ Bến Cá, chùa Sắc Tứ thôn Tân Phước, chùa cổ Vãi Lượng (bị hư hỏng), miếu Long Vương ở thôn Phước Hoà. Riêng ở khu vực Cù Lao Phố chỉ thấy ghi chép về miếu Chưởng cơ Lễ Thành Hầu: “miếu ở bờ phía bắc trông ra sông, Ông là biên tướng thời tiên triều,ngày trước từng giao chiến với Cao Miên rồi chết trận, triều đình sai lập miếu này để thờ, tặng là khai quốc công thần, muôn thuở cúng tế, ngày nay vẫn vậy, lại được dự lệ quốc tế như cũ…”. [1]

Xét theo tài liệu trên, có thể sau khi chịu đại nạn “thuỷ, hoả, đạo, tặc” thì miếu Quan Đế đã hư hỏng hoàn toàn, cỏ cây che lấp nên đã không được ghi chép trong Hoàng Việt nhất thống dư địa chí (1806) chăng?

Sau chiến tranh (1802) dân chúng lần hồi trở về bổn quán, xây dựng lại quê hương: “… hai bên đường là nhà tranh nhà ngói xen nhau, dân cư rất trù mật, đến bến đò, sông rộng 164 tầm, tục gọi là sông Đồng Nai, bến đò tục gọi là bến đò Cù Lao Phố [2]. Đến năm 1817, dân sở tại cậy nhờ quan Trịnh Hoài Đức làm chủ trì, tái thiết xây dựng lại miếu Quan Đế.

4- Trùng tu năm Mậu Thìn – 1868 (lần thứ 3)

Từ đợt  đại trùng tu năm 1817 đến đợt trùng tu năm 1868; trải qua 50 năm, Biên Hoà hứng chịu hai cuộc chiến:

1/ Lực lượng của Lê Văn Khôi từ Thành Gia Định đánh chiếm 3 đợt (1833)

Trận này chưa thấy tài liệu ghi nhận Cù Lao Phố và Miếu Quan Đế có bị ảnh hưởng cuộc chiến hay không.

2/ Liên quân Pháp đánh chiếm tỉnh Biên Hoà (1861).

Trong tài liệu của Ban Tri sự Thất Phủ cổ miếu, dựa theo thông tin của 1 tấm bia đá ốp vào tường tiền điện ghi tên những người đóng góp tiền của trùng tu có ghi niên đại “Đồng Trị Mậu Thìn” (năm 1868), chỉ ra đây là lần trùng tu lần thứ ba.

Khi chiếm được tỉnh Biên Hoà một trại lính thuỷ đánh bộ của liên quân (camp des Marins) được dựng cạnh Thất phủ miếu (Pagodes de Sept Congrégation); 1 ảnh vẽ trong sách xuất bản tại Paris năm 1862 cho ta thấy kiến trúc của Miếu Quan Đế  3, như vậy theo các tài liệu trên, có thể kiến trúc của Miếu Quan Đế trong hình vẽ năm 1862, chính là nguyên bản Miếu được trùng tu năm 1817.

5- Trùng tu năm Giáp Ngọ - 1894 (lần thứ 4)

Trong một tấm bia đá khác trong miếu khắc tên “Thất Phủ Cổ Miếu” và các bức gốm men xanh trang trí trên nóc ngôi miếu… đều ghi niên đại “Quang Tự Giáp Ngọ” (1894). Có lẽ dây là niên đại trùng tu cuối cùng của ngôi miếu, mang lại dáng dấp như ngày nay.

Bên cạnh đó, miếu còn trải qua nhiều lần tái thiết, tu sửa trang trí nhỏ:

- Quan Âm Các (phía sau miếu) do ông Bang Ngầu tái thiết lại năm 1927.

- Trên một số hoành phi liễn đối, bao lam trong miếu có ghi: “Dân Quốc năm thứ 33”, “Dân Quốc năm thứ 36”… cho thấy đây là các đợt tu sửa nhỏ, trang trí nội thất vào các năm 1944, 1947…[2]  

6- Đại trùng tu năm Mậu Tý – 2008 (lần thứ 5)

Từ sau năm 1975 đến trước năm 2005, Thất Phủ cổ miếu gần như không được tu sửa gì lớn, nếu có thì chỉ xử lý mối mọt, sơn mới tường, tượng thờ, bao lam, hoành phi, liễn đối với nguồn kinh phí không đáng kể.

Năm 2007, trước tình trạng xuống cấp của miếu, Ban trị sự miếu cùng Ban quản lý di tích danh thắng tỉnh, họp bàn và đi đến quyết định đại trùng tu toàn bộ ngôi miếu.

Năm 2008, Ban trị sự Thất Phủ cổ miếu, cùng 4 bang người Hoa ở Biên Hoà tiến hành trùng tu, tôn tạo miếu, với tổng kinh phí trên 9 tỷ đồng (thời giá năm 2008) do cộng đồng người Hoa và người Việt ở Biên Hòa – Đồng Nai, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh cùng các tỉnh thành lân cận và cả một số người Hoa ở Hà Nội, các tỉnh phía Bắc cùng đóng góp [2]

3.3. Cổ Vật.

Trong số các cổ vật hiện còn lưu lại tại miếu, thì cổ vật được ghi chép trong thư tịch là 4 con lân đá:

“…phía ngoài có tường gạch bao quanh, bốn góc có 4 con lân bằng đá ngồi xổm 1. Hiện tại các con lân này nằm ngoài khuôn viên miếu. Đi kèm với 4 tượng lân nói trên còn có 4 mốc địa giới bằng đá xanh để đánh dấu ranh đất của miếu trước kia [8].

Chính điện có tượng Quan Đế, được tạc bằng gỗ mít trong đợt đại trùng tư năm 1817,

trước bàn thờ chánh là một bàn đá chạm nổi “Long Phúng Thuỷ” làm năm 1894, giữa chánh

điện là 1 bàn vọng làm bằng gỗ trai, do ông Trần Thiên Thành hỉ tạ năm 1752. Lâu thuyền

trước nghi môn được mang từ quê Hương Trung Hoa sang vào năm 1894. Ở thiên tỉnh có lư

gang lớn năm 1894, và nhiều liễn đối, bao lam trong chính điện, quần thể tiểu tượng gốm trên bờ nóc mái… có tuổi đời hơn trăm năm.

 4. Thay lời kết

Miếu Quan Đế Biên Hoà (Thất phủ cổ miếu, chùa Ông Cù Lao Phố) được kiến lập từ thuở ban sơ khai thác vùng Nam bộ, đến nay đã trải qua lịch sử gần 340 năm; nhưng luôn được cộng đồng người Hoa và người Việt tôn tạo gìn giữ, Miếu trở thành một biểu tượng văn hóa, tâm linh gắn kết của cộng đồng người Hoa và văn hóa dân tộc Việt Nam. Di tích Miếu Quan Đế Biên Hoà (Thất phủ cổ miếu, chùa Ông Cù Lao Phố) là một di tích lịch sử văn hoá, kiến trúc độc đáo, được xem là cơ sở tín ngưỡng đầu tiên của người Hoa trên cả vùng Nam bộ; đã được xếp hạng di tích ở cấp quốc gia theo Quyết định số 04/2001/QĐ của Bộ Văn hóa thông tin ngày 19/02/2001.

Hiện nay, lễ hội tại chùa Ông diễn ra với nhiều hoạt động văn hóa tín ngưỡng đặc sắc, thu hút nhiều người dân khắp nơi đến tham quan, lễ bái. Lễ hội chùa Ông lần thứ nhất diễn ra từ ngày 19 đến 22/02/2013 (từ mùng 10 đến 13 tháng Giêng âm lịch năm Quý Tỵ). Lễ hội là dịp để nhân dân chiêm bái và ngưỡng vọng các bậc tiền hiền đã có công mở mang, xây dựng vùng đất Biên Hòa- Đồng Nai, qua đó thể hiện nét đẹp trong giao lưu văn hóa của các cộng đồng dân tộc ở địa phương. Năm 2023, lễ hội truyền thống chùa Ông, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 3440/QĐ-BVHTTDL ngày 10/11/2023 do Bộ trưởng Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng ký.

Miếu Quan Đế Biên Hoà, cổ miếu ngày nay toạ lạc trên 1 cù lao, được con sông Đồng Nai ôm quanh; Miếu được ngăn cách với bên ngoài bởi vòng tường gạch. Mặt tiền miếu ra sông lớn, trước cổng tam quan có cây si cổ sum suê toả bóng mát, gió lộng, nước trong xanh, bốn mùa mát rượi. Tất cả đã tạo cho ngôi miếu một quang cảnh thoáng mát, nên thơ nhưng cũng thật thâm u, cổ kính. Ngôi miếu là chứng nhân lịch sử, gợi nhớ về thuở hoang sơ mở cõi, khai thác vùng đất này… hơn 300 năm trước của tiền nhân. 

Biên Hoà- Lê Ngọc Quốc, phone 0903906956

Tranh vẽ Thất Phủ Miếu Biên Hoà trong sách xuất Bản tại Paris năm 1862

                        Tranh vẽ một ngôi chùa Hoa ở Đồng Nai của André Joyeux, 
                          ông là giáo sư trường Bá Nghệ Biên Hoà từ năm 1910- 1913.
*Pagode chinoise à Donaï  có phải là Chùa Ông cù lao Phố ?!? 

Tài liệu tham khảo:

[1] Đại Nam Thực Lục- NXB Giáo Dục năm 2007.

[2]  Thất phủ cổ miếu- Ban Trị Sự Thất Phủ Cổ Miếu- NXB Đồng Nai 2010.

[3]  Phủ Biên Tạp Lục- bản dịch, hiệu đính và chú thích của Nguyễn Khắc Thuần- NXB Giáo   Dục năm 2008.

[4] Đại Nam nhất thống chí- bản dịch mới của Hoàng Văn Lâu- NXB Lao Động, Trung Tâm Văn Hoá Ngôn Ngữ Đông Tây 2012.

[5] Hoàng Việt nhất thống dư địa chí- Phan Đăng dịch, chú giải và giới thiệu- NXB Thuận Hoá, Trung Tâm Văn Hoá Ngôn Ngữ Đông Tây năm 2005.

[6] Gia Định thành thông chí-  Hậu học Lý Việt Dũng (dịch và chú giải) Tiến sĩ Huỳnh Văn Tới (hiệu đính và giới thiệu)- NXB Tổng Hợp Đồng Nai năm 2005.

[7] Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư và Giáp Ngọ Niên Bình Nam Đồ- Tạp chí nghiên cứu và phát triển số 2 năm 2014.   

[8] Nguyễn Hữu Lộc- Bảo tàng Lịch sử - TP. Hồ Chí Minh.

[9Cù Lao Phố Lịch Sử và văn hoá- Bảo Tàng Đồng Nai, NXB Đồng Nai năm 1998.

[10] Tableau de la Cochinchine: rédigé sous les auspices de la Société d'ethnographie- A.Le Chevalier,Paris năm 1862.

Và 1 số tài liệu Internet:

- https://gallica.bnf.fr/

- https://baodongnai.com.vn/

- https://nhandan.com.vn/

(5) Cù Lao Phố trong 1 bản đồ năm 1790
  

Thất phủ cổ miếu ngày nay (nguồn Internet)