Thông chí (通誌)
LỜI NÓI ĐẦU
Theo định nghĩa của đại từ điển Từ Hải thì thông chí (通誌) có nghĩa là phỏng
theo thông sử và địa chí của một nước, một vùng, một địa phương mà viết thành.
Thông sử là thông qua lịch sử xưa nay mà viết ra. Địa chí là chép về cương vực,
núi sông, ruộng đồng, thành quách, dân cư, vật sản, phong tục, tập quán. Vậy
“Thông chí xã An Hòa (làng Bến Gỗ)” là một quyển sách chép khái quát về lịch sử,
ranh giới, núi sông, ruộng đồng, nhà cửa, công thự, sản vật, kinh tế, phong tục,
tập quán, văn hóa, chính trị, tín ngưỡng, xã hội, nhân sự của xã anh hùng An
Hòa (còn gọi là làng Bến Gỗ) thuộc huyện Long Thành tỉnh Đồng Nai[1].
Trước đây tại
Biên Hòa Đồng Nai có vị danh sĩ là đại thần lưỡng triều Gia Long-Minh Mạng Trịnh
Hoài Đức viết quyển “Gia Định thành thông chí” thờ danh và bất hủ ghi chép một
cách tỉ mỉ thông sử và địa chí củ toàn cõi Nam bộ và chia ra làm 6 chí là:
a- Tinh dã chí nói về thiên văn.
b- Cương
vực chí nói về ranh giới, đất đai.
c- Sơn xuyên chí nói về núi sông.
d- Phong tục chí nói về phong tục,
tập quán.
e- Vật sản chí nói về sản vật.
f- Thành trì chí nói về thành quách, dinh thự
Chúng tôi
cũng đã mô phỏng theo cách cấu tạo bố cục của sách này mà biên soạn quyển
“Thông chí xã An Hòa”, nhưng do “Gia Định thành thông chí” viết về toàn vùng đất to rộng Nam bộ
nên đã tổng hợp toàn cảnh “Thành Gia Định” qua 6 chí đại cương như vừa nêu trên, còn chúng
tôi chỉ ghi chép mô tả đơn vị hành chánh, địa lý khá nhỏ là một xã nên đã dùng phương cách
phân tích, chia bố cục nội dung thành nhiều chí, mỗi chí nói về một vấn đề tiêu
biểu. Đại khái sách này chia là 12 chí, đó là:
1- Danh xưng chí nói về nguồn gốc
tên gọi An Hòa (Bến Gỗ).
2- Thiên văn chí nói về thiên văn
của xã.
3- Phong thủy chí nói về phương
hương,
cuộc đất của xã qua cái nhìn của môn phong thủy học khoa học ngày nay.
4- Cương
vực chí nói về diện tích đất đai của xã cùng ranh giới tiếp giáp với các địa
phương
qua bốn phía Đông Tây Nam Bắc.
5- Sơn xuyên điền dã chí nói về
núi đồi, sông ngòi, cùng ruộng rẫy.
6- Sản vật
chí nói về vật sản địa phương gồm nông
sản, lâm sản, thủy sản, khoáng sản trong thiên nhiên và nuôi trồng.
7- Kinh tế
chí nói về các sinh hoạt
kinh tế của bốn giới sĩ nông công thương.
8- Cựu ốc cổ mộ chí nói về nhà
xưa mồ cổ
9- Phong tục, tập quán, tín ngưỡng,
tôn giáo chí.
10- Cơ quan, công sở chí.
11- Nhân vật chí nói về người
nổi tiếng tại xã An Hòa.
12- Cương
vị chí nói về vị thế kinh tế, văn hóa, chính trị của xã đối với huyện Long
Thành[2].
Tuy bố cục của sách đã phân ra
riêng biệt từng chí như thế nhưng tính hỗ tương
liên quan giữa các chí vẫn khó loại bỏ, song chúng tôi đã cố gắng hết sức để
tránh tình trạng sự việc của các chí lâm vào tình huống rườm
rà trùng lắp, giẫm đạp nhau.
Việc viết thông chí dù là của một
xã nhỏ cũng là một công việc khó khăn không phải sức một người
làm được
nên chúng tôi không dám tự chuyên cẩu thả như người
đi trước
đã làm mà đã nhờ chính quyền địa phương
An Hòa thành phố Biên Hòa cùng Bảo tàng Quản lý di tích Đồng Nai và nhiều bạn
bè thân thiết tại địa phương
cùng các nơi khác là nhà văn, nhà nghiên cứu có tiếng giúp đở ở mọi phương diện. Dù là
như thế vẫn không sao tránh khỏi những sơ sót nhầm lẫn đáng tiếc. Mong các bậc
thức giả cao minh ở các địa phương
xã An Hòa, thành phố Biên Hòa và toàn tỉnh Đồng Nai cùng các nơi khác xét tâm
thành phục vụ văn hóa là chính mà nguyên lượng
cho.
Xã An Hòa, làng Bến Gỗ đầu xuân Đinh Hợi
(2007)
Hậu học Song Hào Lý Việt Dũng
Cẩn chí
Tái bút: Nơi đây cũng
xin cảm kích ghi nhận công lao rất lớn của đại hiền đồ Đặng Hữu Trí đã không
màng gian khổ ngày đêm dày công giúp đánh vi tính, cả phần chua chữ
Hoa-Nôm-Pháp, trình bày kỹ thuật scan ảnh tư liệu rất phức tạp, hoàn thành bản
thảo toàn bị gần 400 trang A4 tác phẩm “Thông chí xã An Hòa (làng Bến Gỗ)”
này.
PHƯƠNG CHÂM
SOẠN THÔNG CHÍ NÀY
Sách này được biên soạn theo nguyên
tắc thông sử bao đời là phải đạt tính chuẩn mực, chính xác cao và tinh thần
khách quan khoa học. Do An Hòa là một xã văn vật nên các di tích văn hiến còn
lưu lại được đặc biệt nghiên cứu. Vậy những sự vật cụ thể còn hiện tiền như núi
non, sông suối, đình miếu, chùa chiền, nhà xưa, mộ cổ thì nhất thiết phải đạp
thực địa, tìm hiểu chính xác tại chỗ ngoài sách vở. Những sự kiện, sự vật không
còn hiện tiền thì phải kinh qua các giai đoạn sau đây :
a- Thưa hỏi các bậc kỳ lão hiện còn
sống, rồi đối chiếu các ý kiến của họ để chọn cái hợp lý chính xác nhất.
b- Khảo cứu tìm hiểu qua nhiều sử
liệu có liên quan đến An Hòa, thành phố Biên Hòa, Đồng Nai trong các sách
nghiên cứu Anh-Pháp-Hán-Nôm, rồi chọn cái nào đáng tin cậy nhất.
c- Riêng đối với các truyền thuyết
thì càng cần phải nghiên cứu chắt lọc chuyên sâu hơn, khoa học hơn !
Đối với nhà xưa, mộ cổ, đình chùa,
miếu mạo còn dấu tích Hán văn thì phải sao chép cẩn thận, phiên âm, dịch giải
và chú thích đầy đủ kỹ càng. Chỗ nào cần thì phải minh họa bằng hình ảnh sao
chép, photocopy, chụp in lại, nhất là các bản đồ.
Khi biên soạn quyển thông chí này
chúng tôi có xem xét, đối chiếu cẩn thận với quyển “Làng Bến Gỗ xưa và nay” do
Giáo sư tiến sĩ Diệp Đình Hoa biên soạn, được nhà xuất bản Đồng Nai ấn hành năm
1995, nhưng không phải để thái dụng tư liệu của tác giả mà là để nêu ra những
chỗ khác biệt giữa ông và chúng tôi trong cùng một vấn đề thuộc địa hạt cổ Hán
văn mà chúng tôi phát hiện được tương đối khá nhiều sai sót trong sách của vị ấy.
Những chỗ khác biệt mà chúng tôi chủ quan mạo muội cho là sai sót này được
trình bày dưới dạng Ital ngay chỗ sơ sót kèm theo lý giải đính chính. Sở dĩ
chúng tôi phải làm thế vì hai quyển sách cùng viết về một đề tài mà có chỗ dị
biệt thì nhất định phải nêu chỗ khác nhau ra để bạn đọc phán xét công tâm. Đây
là một việc làm ngoài ý muốn để bảo vệ văn hiến địa phương và chúng tôi xin chịu
trách nhiệm trước giáo sư Diệp Đình Hoa và mong được ông phản biện trên phương
tiện ngôn luận để chúng tôi được chỉ giáo học hỏi thêm. Chúng tôi cũng thành thật
mong độc giả thông cảm cho việc làm bất đắc dĩ này, đây cũng là cách biểu thị
An Hòa là đất văn vật, không phải ai cũng đến múa gậy vườn hoang được!
CHƯƠNG I- DANH XƯNG CHÍ
Xã An Hòa (làng Bến Gỗ) hiện nay
(2007) thuộc huyện Long Thành tỉnh Đồng Nai. Từ ngã ba Vũng Tàu (theo tên gọi
khi xưa), nay là vòng xoay siêu thị Big C (Cora cũ), theo quốc lộ 51 đi về phía
Bà Rịa Vũng Tàu đến Cầu Đen (nay là cầu Long Bình) là ranh giới của xã An Hòa
huyện Long Thành và phường Long Bình Tân của thành phố Biên Hòa, bên này cầu là
phường Long Bình Tân, bên kia cầu là xã An Hòa. Qua khỏi Cầu Đen, bên phải quốc
lộ 51 là xã An Hòa, bên kia quốc lộ 51 là khu 2 và 3 phường Long Bình Tân, đi
tiếp đến cột mốc cây số km 02 trước kia ghi Tp.HCM 29 km, Vũng Tàu 85 km (nay
ghi km 02, Long Thành 17 km) gặp một đường rẽ về bên phải, đầu đường có cổng
chào, là con đường chính của xã dẫn tới chợ An Hòa.
Ngày nay làng Bến Gỗ chỉ là vùng đất
duy nhất nằm trong toàn phạm vi xã An Hòa. Tuy nhiên ở thời xa xưa thì Bến Gỗ
là tên một vùng đất, xét theo tên địa giới hành chánh hiện nay, bao gồm các xã
An Hòa, Long Hưng, một phần xã Phước Tân, một phần xã Tam Phước của huyện Long
Thành, phường Long Bình Tân của thành phố Biên Hòa, gồm luôn căn cứ Long Bình
trước 75 giáp quốc lộ 15 cũ (xin xem sơ đồ giả thíết vùng Bến Gỗ ngày xưa). Bằng
cớ là hiện nay giáo đường và giáo xứ Bến Gỗ lại tọa lạc bên phường Long Bình
Tân. Theo linh mục Franxico Phan Chiếm hiện đang cai quản giáo xứ và nhà thờ đạo
Thiên Chúa Bến Gỗ thì họ đạo Bến Gỗ khi xưa thuộc giáo phận Xuân Lộc. Trong tư
liệu “Lịch sử giáo phận Xuân Lộc” mà linh mục có nhã ý trưng ra cho chúng tôi
xem, thấy ở dòng 16 trang đầu chương I - Lịch sử, có ghi: “Năm 1692, đức Cha
Pérez kinh lý các họ đạo tại vùng Bến Gỗ (xin xem lịch sử giáo phận Xuân Lộc)”.
Như vậy tên gọi vùng Bến Gỗ phải có từ 1692 trở về trước. Nếu đúng thì đạo
Thiên Chúa đã có mặt ở Trấn Biên từ năm 1692. Niên đại 1692 trong tư liệu trên
là một con số thật đáng ngờ !
Liên quan đến vùng Bến Gỗ khi xưa tại
trang 122 tập 4 nói về Tiền Giang tức Le Cis bassac (bao gồm cả miền Đông Nam bộ)
trong quyển “L’archéologie du Delta du Mékong”, Louis Malleret đã viết:
La région de Bến Gỗ au Sud de l’ile
de cù lao Phố, sur la rive gauche du Đồng Nai, a laissé a-t-on vu des traces
d’occuppation préhistorique mais elle a connu aussi la présence des Khmères,
attestée par quelques scultures. C’est d’abord, près du fleures au village de
Long Bình, canton de Long Vĩnh Thượng, province de Biên Hòa. En cet endoit, M.
Révertégat a recueilli au Nord d’une briquetterie une statue préangkorienne
d’Uma.
Tạm dịch:
Vùng Bến Gỗ ở phía Nam của cù lao
Phố trên tả ngạn sông Đồng Nai đã để cho người ta phát hiện nhiều dấu tích tiền
sử. Đồng thời nó cũng được biết đến như là nơi hiện diện của người Miên qua các
tác phẩm điêu khắc. Trước hết, cạnh sông Đồng Nai tại làng Long Bình, tổng Long
Vĩnh thượng tỉnh Biên Hòa. Tại nơi này, ông Révertégat đã nhặt được ở phía Bắc
một lò gạch – một bức tượng nữ thần Uma thời tiền Ăng Co (xin xem sơ đồ Giả
thiết vùng Bến Gỗ ở trang sau).
Cũng liên quan đến tên gọi vùng Bến Gỗ thì sách “Gia Định thành thông chí (嘉定城通誌)” do Thượng Thư triều
Nguyễn là Trịnh Hoài Đức (鄭懷德) viết, được ấn hành khoảng năm đầu triều vua Minh Mạng, ở
Sơn xuyên chí (山川誌) tức chí nói về sông ngòi trấn Biên Hòa đã viết:
a- Nguyên văn:
安 和 江
在 福 江 之 北, 距 鎮 東 十 九 里, 口 外 為 仝 眞 江, 北 流 半 里 至 安 和 (村 名) 市. 蓋 (舊) 為 材 木 之 津, 故 俗 名𣷷楛…
b- Phiên âm:
An Hòa giang
Tại Phước Giang chi bắc,
cự trấn đông thập cửu lý, khẩu ngoại vi Đồng Chân giang, bắc lưu bán lý chí An
Hòa (thôn danh) thị. Cái (cựu) vi tài mộc
chi tân, cố tục danh Bến Gỗ..
c- Tạm dịch:
… Sông An Hòa (tên Miên do soạn giả sưu tầm là Tonlé
prêk Kòmpon tàtàv), ở về phía Bắc sông Phước Giang, cách trấn về phía Đông 19 dặm.
Đoạn ngoài cửa sông là sông Đồng Chân, chảy ra hướng
Bắc nửa dặm đến chợ An Hòa của thôn An Hòa, trước kia đây là bến để gỗ, cho nên
gọi là Bến Gỗ…?.
Về tên gọi Bến Gỗ này, tập V, quyển 27 sách “Đại Nam nhất thống chí” do Quốc
sử quán triều Nguyễn ấn hành khoảng năm 1864 – 1875, là sách thoát thai hay đúng ra là phiên bản
của “Gia Định thành
thông chí” chương nói về tỉnh
Biên Hòa cũng viết .
Nguyên văn:
安 和 江
在 隆 城 縣 西 北 二 十 一 里 福 隆 江 之 分 枝 也. 口 外 為 仝 真 江 北 流 半 里 經 安 和 村 市, 舊 為 材 木 之 津 俗 名𣷷楛…
Phiên âm:
Tại Long Thành huyện tây bắc nhị thập nhất lý, Phước
Long giang chi phân chi dã. Khẩu ngoại vi Đồng Chân giang, bắc lưu bán lý kinh
An Hòa thôn thị, cựu vi tài mộc chi tân, tục danh Bến Gỗ...
Tạm dịch:
… Sông An Hòa ở
cách huyện Long Thành 21 dặm về phía Tây Bắc, là phân lưu của sông Phước Long
đoạn ngoài cửa là sông Đồng Chân, chảy về phía Bắc nửa dặm đến chợ thôn An Hòa,
nơi đây có bến để gỗ nên gọi là Bến Gỗ” (Bản dịch Đại Nam nhất thống chí của Phạm
Trọng Điềm dịch sai “… làm bến tre gỗ, tục gọi Rạch Gỗ, là do nguyên văn viết
sai 瀝楛 tức Rạch Gỗ.
Cụ Điềm không có dịch sai nhưng kiến thức không rộng !).
Về tên gọi An Hòa
cũng qua sách “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức ở chương “Biên Hòa
trấn” thuộc chí Sơn xuyên mà ta biết được con sông An Hòa chảy ngang qua chợ An
Hòa của làng An Hòa. Tuy nhiên chưa ai biết được tên chợ đã lấy theo tên sông
hay ngư?c lại, có nghĩa là tên sông và tên chợ cái nào có trước. Dù là vậy,
theo tập quán, cái gì là thiên nhiên thì có trước, còn cái gì do con người tạo
dựng ra thì nương theo cái có trước mà đặt tên. Vậy có thể coi như chợ An Hòa của
làng An Hòa nhân có con sông An Hòa chảy qua mà đặt thành tên. Tên chợ An Hòa
này cũng là tên thôn An Hòa. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho tên sông An Hòa lấy
theo tên chợ An Hòa, xin chờ chỉ giáo !
Xã An Hòa ngày nay thuộc huyện Long Thành[1] tỉnh Đồng Nai ở
miền Đông Nam bộ, vậy muốn biết lịch sử hình thành của An Hòa thì chúng ta cần
phải nghiên cứu khái quát tiến trình lịch sử của huyện Long Thành và tỉnh Đồng
Nai cùng miền Đông Nam bộ và xa hơn nữa là toàn Nam bộ tức thành Gia Định
xưa.
Quyển “Gia Định thành thông
chí” của cụ Trịnh Hoài Đức có lẽ là quyển
lịch sử và địa
lý Nam bộ hoàn chỉnh nhất từ xưa đến giờ. Viết về lịch sử Nam bộ còn có 2 quyển
phổ biến nữa là tập 5 bộ Đại Nam nhất thống chí được
Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn vào khoảng năm 1864 – 1875 triều vua Tự Đức
và quyển Nam kỳ lục tỉnh địa dư chí của Duy
Minh Thị soạn. Tuy nhiên cả tập 5 Đại Nam nhất thống chí và Nam kỳ lục tỉnh địa
dư chí của Duy Minh Thị đều là thoát thai từ Gia Định
thành thông chí, hay nói theo kiểu bình dân là “cọp dê” nguyên xi Gia Định
thành thông chí, nhưng trong khi Đại Nam nhất thống chí tập 5 còn có sắc thái
riêng thì Nam kỳ lục tỉnh địa dư chí chỉ là
bản tóm lược
của Gia Định
thành thông chí mà thôi. Do đó ở phần dẫn văn, chủ yếu chúng tôi chỉ trích từ
Gia Định
thành thông chí mà không dẫn ở hai sách trên (chỉ thỉnh thoảng thoảng mới dẫn
có tính cách bổ sung trong Đại Nam nhất thống chí tập 5 nói về Nam bộ).
Ở chí cương vực, Trịnh Hoài Đức
viết:
a- Nguyên văn:
…叙夫, 嘉 定 昔 為 水眞 臘 之 地 (而 今
高 蛮 国 其 類 有 水 眞 臘, 陸 眞 臘 之 別)
b- Phiên âm:
… Tự phù! Gia Định
tích vi Thủy Chân Lạp chi địa (nhi kim Cao
Man quốc kỳ loại hữu Thủy Chân Lạp, Lục Chân Lạp chi biệt)
c- Tạm dịch:
Gia Định xưa kia là đất
của Thủy Chân Lạp [nay nước Cao Man chia
ra làm 2 loại: Lục Chân Lạp (Chenla of the land) và Thủy Chân Lạp (Chenla of
the water)].
Như vậy chúng ta thấy rằng đất
Nam bộ ngày nay là đất của Cao Miên miền dưới
mà do sự phát triển tất yếu của người Việt Nam ở
đàng trong tiến về phương Nam mà đất này dần dần thuộc về
ngư?i Việt. Đây cũng là một tất yếu của lịch sử nhân loại, kẻ tiến người
lui thì cuối cùng đất đai thuộc về kẻ tiến vậy. Chuyện này không có chi phải né
tránh!
Sau khi có trong tay toàn thể đất
Nam bộ, nhà Nguyễn chia đất này thành 5 trấn:
Trấn biên (tức Biên Hòa), Phiên trấn (tức Sài Gòn Gia Định), trấn Định Tường (tức Mỹ
Tho), trấn Vĩnh Thanh (tức Vĩnh Long, An Giang) và trấn Hà Tiên (tức Hà Tiên).
Về sự hình
thành Trấn Biên (đây chỉ Biên Hòa, chứ không phải Phú Yên khi xưa, có thời cũng
được gọi là Trấn
Biên). Cũng ở chí cương vực, Trịnh Hoài Đức viết:
a- Nguyên văn:
… 顯 宗 孝 昭 (明)
皇 帝, 戊 寅 八 年 (梨 熙 宗 正 和 十 九 年, 大 清 康 熙 二十 七 年) 春,
命 統 率 掌 奇 禮 成 候? 阮 經 畧 高 蛮,
以 農_ 耐 地 置 為 嘉 定 府, 立 仝 狔 處 為 福 隆 縣, 建 鎮 边 營 (莅 所 在 今 福 廬 村 ) 柴 棍 處 為 新 平 縣…
b- Phiên âm:
… Hiển Tông Hiếu
Chiêu (Minh) Hoàng đế, Mậu Dần bát niên (Lê Hi Tông Chánh Hòa thập cửu niên, Đại
Thanh Khang Hi nhị thập thất niên) xuân, mệnh thống suất chưởng cơ Lễ thành hầu Nguyễn kinh lược Cao Man, dĩ Nông
Nại địa trí vi Gia Định phủ, lập Đồng Nai xứ vi Phước Long huyện, kiến Trấn Biên dinh (lị sở tại kim Phước Lư thôn) Sài Gòn xứ vi Tân Bình huyện…
c- Tạm dịch:
Mùa xuân năm thứ 8 Mậu Dần (1698) thời Hiển Tông Hiếu Chiêu (Minh) Hoàng
đế (nhằm Lê Hi Tông niên hiệu Chánh Hòa thứ 19, Đại Thanh Khang Hi thứ 27), triều
đnh sai quan thống suất chưởng cơ Nguyễn (Hữu Cảnh) sang kinh lược đất Cao
Miên, ông lấy đất Nông Nại (Gia Định chứ không phải Đồng Nai, mặc dù Nông Nại
là tiếng người nhà Thanh gọi trại tiếng Đồng Nai) đặt làm phủ Gia Định, lập đất
Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng nên dinh Trấn Biên (lị sở ở chỗ nay là thôn
Phước Lư), lập xứ Sài Gòn làm quận Tân Bình… Như vậy ta thấy Trấn Biên (tức tỉnh Đồng Nai bây giờ) được
thành lập rất sớm (1698) vào thời kỳ đầu của 5 trấn Nam bộ
Thuở ban đầu, Nam bộ không
chia ra 2 miền Đông Tây mà chia ra làm 5 trấn như vừa nêu trên. Về sau lấy Sài
Gòn Gia Định làm
trung tâm mới định vị miền
Đông Nam bộ gồm các tỉnh (tính theo hiện nay) Bình Dương, Bình Phước, Đồng
Nai, Tây Ninh, Bà Rịa Vũng Tàu.
Nói về trấn
Biên Hòa trong chí cương vực của sách “Gia Định thành thông chí”, Trịnh Hoài Đức viết:
a- Nguyên văn:
… 边 和 鎮
其 鎮 建 置 之 初 號 鎮 边 營, 領 縣 一 總 四, 莅 所 在 福 隆 縣, 福 盧 村 地 方. 嘉 隆 七 年, 正 月 十 二 日 改 為 边 和 鎮, 以 縣 為 府, 總 為 縣, 按 其 地 之 廣 狹, 民 之 多 寡, 據 見 聯 絡, 均 而 補 之, 又 增 置 諸 總, 各 立 界 限. 嘉 隆 十 五 年 二 月 改 建 莅 在 福 正 縣, 新 隣 村…
b- Phiên âm:
Biên Hòa trấn:
Kỳ trấn kiến trí
chi sơ hiệu Trấn biên dinh, lĩnh huyện nhất, tổng tứ, lị sở tại Phước Long huyện, Phước Lư thôn địa phương. Gia Long thất niên chính nguyệt thập nhị nhật cải vi
Biên Hòa trấn, dĩ huyện vi phủ, tổng vi huyện, án kỳ địa chi quảng hiệp, dân chi đa quả, cứ kiến liên lạc, quân nhi bổ chi, hựu
tăng trí chư tổng, các lập giới hạn. Gia Long thập ngũ niên nhị nguyệt cải kiến
lị tại Phước Chính huyện, Tân Lân thôn…
c- Tạm dịch:
… Trấn Biên Hòa
(Kompăp srakà trei)
Buổi đầu mới đặt
trấn gọi là dinh Trấn Biên, gồm một huyện 4 tổng, lị sở đóng tại đất thôn Phước Lư thuộc huyện Phước Long. Ngày 12 tháng giêng năm Gia Long thứ 7 (1808) đổi
lại là trấn Biên Hòa, rồi nâng huyện thành phủ, tổng thành huyện, đó là căn cứ
vào đất đai rộng hay hẹp, dân cư nhiều hay ít và thế đất liền nhau mà chia đều
ra. Lại đặt thêm tổng và phân chia giới hạn. Tháng 2 năm Gia Long thứ 15 (1816) cải lập lị sở tại thôn Tân Lân, huyện Phước Chánh.
Về sau trấn Biên
Hòa đổi lại thành tỉnh Biên Hòa, rồi khi 6 tỉnh Nam kỳ lọt vào tay Pháp cho đến
khi cả nước đều bị Pháp đô hộ, Nam bộ chia ra 21 tỉnh thì tên gọi tỉnh Biên Hòa
cũng không thay đổi. Năm 1861, một trung tá người Pháp được cử làm tỉnh trưởng Biên Hòa gọi là quan chánh tham biện hay gọi tắt là
ông Chánh Tây (Inspecteur des affaires indigènes). Qua thời Việt Nam cộng hòa
tên tỉnh Biên Hòa cũng không thay đổi và các tỉnh trưởng đều là sĩ quan cấp tá mà người kế vị sau cùng
cho đến khi giải phóng là đại tá Lưu Yểm. Sau giải phóng, tỉnh Biên Hòa đổi tên
thành tỉnh Đồng Nai cho đến ngày nay.
Tỉnh Biên Hòa được tư liệu của Pháp là Monographie de la province de Bien
Hoa in năm 1901 viết:
Histoire de Biên
Hòa
Biên Hòa, autrefois province
Cambodgienne, fut conquise sous le roi Giao Chỉ Lê Thần Tông (1648 – 1663), par
le seigneur de Huế (Annam), Nguyễn Hiếu Vương, et colonisée par les
habitants du Quảng Nam, du Quảng Ngãi et de Bình Định.
Vers 1705, Dương Ngạn Địch, général
d’une armée de la dynastie Chinoise des Minh, ayant été battu par les Tartares
s’enfuit sur des barques et aborda avec 3.000 guerriers dans le royaume
d’Annam.Le roi de ce pays, informée par des mandarins de cette arrivée, ordonna
d’accueillir amicalement les Célestes, de recevoir leur soumission mais de les
envoyer en Cochinchine coloniser de nouveaux terrains.
Les Chinois se rembarquèrent et se dirigèrent vers
le territoire qui leur était assigné : les uns avec Dương Ngạn Địch
s’établirent à Mỹ Tho, les autres avec Trần Thượng Xuyên, 2è chef de
l’expédition, allèrent se fixer dans l’ile de Cù Lao Phố et sur les rives du Đồng
Nai, notamment à Ban Lân (Bến Gỗ actuel).
Ces étrangers s’allièrent avec les Annamites établis
précédemment dans ces régions et se mirent à défricher et à cultiver le pays.
Des fonderies furent créées, des pagodes
construites, des rues tracées. En peu de temps, le village de Ban Lân devint un
centre commercial très important activement fréquenté par les navires de
commerce de nationalités différentes qui remontaient le Đồng Nai pour venir
trafiquer et y échanger leurs marchandises.
Le nombre de colons résidant dans l’ancien
territoire conquis aux Cambodgiens ayant considérablement augmenté, le huyện de
Phước Long (sous-préfecture) fut d’abord fondé puis transformé en un Phủ
(préfecture) qui comprenait quatre huyện: Phước Chánh, Bình An, Long Thành et
Phước Bình. Le roi Minh Mạng changea cette organisation administrative, il
l’agrandit et en fit une province du nom de Biên Hòa tỉnh qui eut comme limites
: au nord la province de Bình Thuận; au sud, la province de Gia Định; à l’Est
la mer; à l’ouest, le royaume du Cambodge.
Biên Hòa tỉnh a formé sous la domination francaise
trois provinces : Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một. La province de Biên Hòa
actuelle a été constituée par les huyện de Phước Chánh et Long Thành. Cette
province appartint aux Annamites jusqu’en 1861. Date de l’arrivée en
Cochinchine du contre-armiral Bonnard, nommé commandant en chef de l’expédition
francaise en remplacement du vice-amiral Charner, arrivé au terme de son
commandement.
L’amiral Bonnard s’occupa immédiatement, suivant les
instructions du Ministre de la marine, de porter les frontières de notre
colonie naissante à l’Est de Sài Gòn déjà en notre pouvoir.
C’est dans ce but que fut entreprise l’expédition de
Biên Hòa.
Histoire de la conquête de Biên Hòa
Située à une vingtaine de kilomètres de Sài Gòn, sur
la rive gauche du Đồng Nai et à cheval sur la route d’Annam, la petite
citadelle de Biên Hòa avait servi de point de ralliement à Nguyễn Tri Phương et
à un grand nombre de fuyards de l’armée de Chí Hòa. Elle était donc, à ces
divers titres, particulièrement inquiétante. Ses abords, du côté de Sài Gòn,
étaient d’ailleurs puissamment défendus par de nombreux ouvrages et obstacles,
et notamment par un camp retranché de 3.000 hommes établi à moins de deux
lieues des positions Francaises, sur le plateau de Mỹ Hòa.
Lịch sử Biên Hòa
Biên Hòa khi xưa là một tỉnh của Cao Miên, bị chinh
phục bởi chúa Nguyễn Hiếu Vương của Huế (An Nam) dưới đời vua Giao Chỉ Lê Thần
Tông (1648 – 1663) và bị xâm lấn dưới dạng thuộc địa bởi người dân Quảng Nam,
Quảng Ngãi và Bình Định.
Vào khoảng năm 1705, Dương Ngạn Địch đại tướng chỉ
huy một đội binh của Minh triều Trung Hoa, một triều đại vừa bị người Mãn Thanh
đánh bại, đã dong nhiều chiến thuyền chạy trốn và cặp bờ với 3.000 chiến binh
vào vương quốc An Nam. Vua nước này (chúa Nguyễn) được các quan tâu trình, đã
ra lệnh đón tiếp bọn vong thần hữu nghị và chấp nhận sự thần phục của họ đồng
thời đưa họ vào Nam bộ để cai quản các vùng đất đai mới.
Các người Trung Hoa nói trên đã dong thuyền về các
miền đất được chỉ định. Một đoàn với Dương Ngạn Địch định cư Mỹ Tho, đoàn khác
với Trần Thượng Xuyên tướng thứ hai của cuộc mở cõi tiến đến và định cư tại cù
lao Phố và dọc các nhánh của sông Đồng Nai như Ban Lân (còn gọi là Bến Gỗ)? Các
người nước ngoài đã cùng người An Nam ổn định trước tại các vùng đất này bắt đầu
phát triển gầy dựng chúng.
Nhiều xưởng chế tạo được tạo ra, nhiều chùa chiền được
xây dựng, nhiều đường phố đã được vạch trải ra. Trong một thời gian ngắn, làng
Ban Lân đã trở nên một trung tâm thương mại thật quan trọng rất được tàu buôn
các nước ưa chuộng. Các tàu này cặp bờ Đồng Nai để giao dịch và trao đổi hàng
hóa.
Số lớn các vùng đất trước đây chiếm được của người
Cao Miên đã đương nhiên tăng thêm cương vị như huyện Phước Long được thành lập
ban đầu rồi đôn lên thành phủ gồm 4 huyện: Phước Chánh, Bình An, Long Thành và
Phước Bình. Vua Minh Mạng thay đổi hệ thống hành chánh này, mở rộng chúng và đặt
thành một tỉnh có tên là tỉnh Biên Hòa, phía Bắc giáp với tỉnh Bình Thuận, phía
Nam giáp tỉnh Gia Định, phía đông giáp biển và phía tây giáp vương quốc Cao
Miên.
Tỉnh Biên Hòa dưới sự xâm chiếm của người Pháp gồm 3
tỉnh Bà Rịa, Biên Hòa và Thủ Dầu Một. Tỉnh Biên Hòa trước tiên gồm 2 huyện Phước
Chánh và Long Thành, tỉnh này thuộc quyền người An Nam đến năm 1861, ngày đặt
chân đến Nam bộ của Chuẩn thủy sư đô đốc Bonnard, được cử làm tổng chỉ huy đoàn
quân viễn chinh Pháp, thay thế Phó thủy sư đô đốc Charner là người được đưa lên
làm cấp chỉ huy của Bonnard.
Chuẩn đô đốc Bonnard tiến hành ngay theo sự chỉ đạo
của Bộ trưởng hải quân Pháp là đặt các biên giới thuộc địa của chúng ta (xưng
hô của người Pháp) ở phía Đông Sài Gòn thành chủ quyền của mình. Chính với mục
tiêu đó mà dẫn đến chiến dịch đánh chiếm Biên Hòa.
Lịch sử đánh chiếm Biên Hòa
Nằm bên tả ngạn sông Đồng Nai, còn nếu đi đường ngựa
thì trên đường Thiên lý bắc của An Nam cách Sài Gòn chừng 20 cây số ngoài, cái
thành nhỏ bé Biên Hòa này được dùng làm nơi tiếp liệu cho Nguyễn Tri Phương và
một số lớn các tiền đồn của đồn binh chánh Chí Hòa. Nó còn là, ngoài một số
cương vị nêu trên, một nơi đặc biệt rất đáng lo ngại. Chung quanh nó, phần giáp
với Sài Gòn được phòng thủ mạnh mẽ bởi một số các đơn vị ngăn chặn mà cụ thể là
một đồn trại trên gò cao Mỹ Hòa với 3.000 lính, thiết lập chỉ cách các căn cứ
Pháp có 2 dặm…
[Trích dịch từ Monographie de la province de Biên
Hòa (1er fascicule) in năm 1901 của Pháp. Chúng tôi không dịch tiếp vì đoạn sau
chỉ là đề cao chiến công đánh chiếm Biên Hòa của Pháp ! Lời lẽ giọng điệu của
đoạn văn trên là do người Pháp viết và có nhiều điểm không đúng với lịch sử, địa
lý nhưng do tôn trọng nguyên văn khi dịch nên chúng tôi không sửa !].
Cũng liên quan đến tỉnh Biên Hòa, trang 225 sách
Vade – Mecum Annamite 1917 (tức Sổ tay Cẩm nang An Nam in năm 1917) viết:
Nguyên văn tiếng Pháp:
Province de Biên Hòa
M.M- Damprun,
administrateur de deuxième classe, chef de la province.
- Cuniac
(Antoine), administrateur de 5e classe, administrateur adjoint.
- Trần Quang Thuật,
Phủ de première classe.
- Lê Văn Biện,
secrétaire comptable de première classe.
- Phan Thanh
Trà, secrétaire titulaire de première classe.
- Đỗ Cao Sô,
secrétaire titulaire de troisième classe.
- Trần Văn Quế,
secrétaire titulaire de troisième classe.
- Hồ Công Chánh,
secrétaire auxiliaire de première classe.
- Trần Văn Châu,
élève secrétaire.
Vậy chúng ta thấy vào năm 1917, quan Thanh tra sự vụ
bổn quốc (inspecteur des affaires indigènes) tức quan Bố chánh của Pháp đã được
sửa đổi gọi là quan Chánh tham biện chủ tỉnh (tức Tỉnh trưởng) và tỉnh Biên Hòa
được cai trị bởi các quan chức sau đây (trong đó có ông Đỗ Cao Sô người xã An
Hòa nhưng lúc này chưa được làm ông Phủ):
Tạm dịch:
Tỉnh Biên Hòa
Các ông:
- Ông Damprun,
tham biện hạng nhì, Chánh chủ tỉnh (gọi tắt là ông Chánh).
- Ông Cuniac
(Antoine), tham biện hạng năm, Phó chủ tỉnh (gọi tắt là ông Phó).
(Về từ “ông
Chánh” Nam bộ còn để lại bài ca dao rất hay nói về các me Tây thay chồng như
thay áo, chỉ chạy theo quyền lực vàng bạc mà thôi:
Ngày nào ông Chánh về Tây
Cô Ba ở lại lấy
thầy thông ngôn
Thông ngôn, ký lục
bạc chục không màng
Lấy chồng thợ bạc
đeo vàng đỏ tay)
- Ông Trần Quang Thuật, Phủ hạng nhì.
- Ông Lê Văn Biện,
Thư ký kế toán hạng nhất.
- Ông Phan Thanh
Trà, Ký lục hàm hạng nhất.
- Ông Đỗ Cao Sô,
Ký lục hàm hạng ba.
- Ông Trần Văn
Quế, Ký lục hàm hạng ba.
- Ông Hồ Công
Chánh, Ký lục bổ khuyết hạng nhất.
- Ông Võ Văn
Thanh, Ký lục bổ khuyết hạng nhì.
- Ông Trần Văn
Châu, Ký lục tập sự.
(Chú : về chức vụ, ngạch trật, hàm của
các công chức làm việc cho Pháp thời 1917 đối với ngày nay chỉ là vang bóng xa
xưa nên chúng tôi e dịch không chính xác. Mong được chỉ giáo, cám ơn nhiều !).
Về huyện Long Thành ở chí cương vực
Gia Định thành thông chí, cụ Trịnh đã viết:
a-Nguyên Văn:
隆 城 縣
前 總 今 改 為 縣, 東 界 福 安 縣, 安 富 總, 自 女 僧 山 至 七 岐 口 (俗 名 汛 我
西 界 平 安 縣 安 水 總 諒 尼 山, 南 界 桴 家 大 江, 北 界 福 正 縣 福 榮 總 魚 池 處.
隆 永 總
新 設 置, 三 十 四 社, 村, 坊, 邑, 東 界 大 林 蛮 册, 北至 同 門 江, 西 界 平 安 縣 安 水 總, 諒 尼 山, 南 界 安 水 總, 爪 爪 江, 北 界 福 正 縣, 福 榮 總 魚 池 處.
1- 隆 長 村
2- 平 陽 村
3- 隆 安 村
4-安 和 村
5- 永 壽 村
6- 永 和 村
7- 永 東 村
8- 福 全 村
9- 萬 全 村
10- 安 春 村
11- 福 洲 村
12- 福 新 村
13- 福 可 村
14- 福 嘉 村
15- 福 綿 村
16- 福 長 村
17- 隆 和 村
18- 福 貴 村
19- 福 美 村
20- 福 長 社
21- 隆 盛 西 村
22- 隆 盛 東 村
23- 隆 富 東 村
24- 福 善 村
25- 福 厚 邑
26- 福 泰 村
27- 隆 大 村
28- 隆 綏 坊
29- 福 和 村
30- 福 利 村
31- 永 順 村
32- 隆 城 村
33- 安 興 村
34- 福 美 村
b- Phiên âm:
Long Thành huyện:
Tiền tổng kim cải vi huyện, đông giới Phước An huyện,
An Phú tổng, tự Nữ Tăng sơn chí Thất Kỳ khẩu (tục danh Vàm Ngã Bảy), tây giới
Bình An huyện An Thủy tổng Lượng Ni sơn, nam giới Phù Gia đại giang, bắc giới
Phước Chánh huyện Phước Vinh tổng Ngư Trì xứ.
Long Vĩnh tổng
Tân thiết trí, tam thập tứ xã, thôn, phường, ấp, đông
giới đại lâm Man sách, Bắc chí Đồng Mun giang (Kompon Khamau), tây giới Bình An
huyện An Thủy tổng, Lượng Ni sơn, Trảo Trảo giang, bắc giới Phước Chánh huyện
Phước Vinh tổng, Ngư Trì xứ.
c- Tạm dịch:
Huyện Long Thành:
Trước là tổng, nay sửa lại thành huyện gồm 2 tổng,
63 xã, thôn, phường, ấp. Phía Đông giáp xã An Phú thuộc huyện Phước An, từ núi
Nữ Tăng (núi Thị Vãi – Phnom dón ci) đến cửa Thất Kỳ (tục gọi Vàm ngã bảy),
phía Tây giáp núi Lượng Ni (vãi Lượng) tổng An Thủy huyện Bình An, phía Nam
giáp sông cái Nhà Bè (Phù Gia), phía Bắc giáp xứ Ngư Trì (Ao Cá) tổng Phước
Vinh, huyện Phước Chánh.
Tổng Long Vĩnh (mới đặt ra)
Gồm 34 xã, thôn, phường, ấp. Phía Đông giáp các sách
mọi ở rừng già, phía Bắc đến sông Đồng Mun (Kompon Khmau), phía Tây giáp núi Lượng
Ni (vãi Lượng) của tổng An Vĩnh huyện Bình An, phía Nam giáp sông Trao Trảo tổng
An Thủy, phía Bắc giáp xứ Ao Cá tổng Phước Vinh huyện Phước Chánh.
(Phiên âm dưới dạng dịch luôn)
1- Thôn Long Trường
2- Thôn Bình
Dương
3- Thôn Long An
4- THÔN AN HÒA
5- Thôn Vĩnh Thọ
(còn có tên là Trường Thọ?)
6- Thôn Vĩnh Hòa
7- Thôn Vĩnh
Đông
8- Thôn Phước
Toàn
9- Thôn Vạn Toàn
10- Thôn An Xuân
11- Thôn Phước
Châu
12- Thôn Phước
Tân
13- Thôn Phước
Khả (còn có tên là Phước Kế)
14- Thôn Phước
Gia
15- Thôn Phước
Miên
16- Thôn Phước
Trường
17- Thôn Long
Hòa
18- Thôn Phước
Quới
19- Thôn Phước Mỹ
20- Xã Phước Trường
21- Thôn Long Thạnh
Tây
22- Thôn Long Thạnh
Đông
23- Thôn Long
Phú Đông
24- Thôn Phước
Thiện
25- Ấp Phước Hậu
26- Thôn Phước
Thái
27- Thôn Long Đại
28- Phường Long
Tuy
29- Thôn Phước
Hòa
30- Thôn Phước Lợi
31- Thôn Vĩnh
Thuận
32- Thôn Long
Thành
33- Thôn An Hưng
34- Thôn Phước Mỹ
Xem qua danh sách 34 xã, thôn, phường, ấp nêu trên,
chúng ta thấy một số tên địa phương thời xưa vẫn còn được giữ lại cho tới ngày nay
dù có thay đổi cương vị như thôn Phước Khả (còn gọi là Phước Kế) (giờ chỉ là ấp
Phước Khả), thôn An Xuân, thôn Phước Châu giờ cũng chỉ
là ấp, thôn An Hòa, Phước Tân, Long An, Phước Thái vẫn còn là thôn (xã) như cũ.
Thôn An Hòa của tổng Long Vĩnh thuộc huyện Long Thành khi xưa chính là xã An
Hòa (làng Bến Gỗ) thuộc huyện Long Thành ngày nay vậy. Riêng thôn Long Thành
ngày nay là thị trấn Long Thành của huyện (huyện Long Thành ngày nay chỉ gồm
các xã là An Hòa, Phước Tân, Long Hưng, Tam Phước, Tam An, An Phước, Long Đức,
Long Thành, Lộc An, Bình An, Long An, Bình Sơn, Long Phước, Suối Trầu, Cẩm Đường,
Bàu Cạn, Tân Hiệp, Phước Thái, Phước Bình) (xin xem sơ đồ vị trí các xã
trong huyện Long Thành – tỉnh Đồng Nai).
Riêng tổng
Long Vĩnh Thượng, trang 225 sách Vade – Mecum Annamite 1917 viết:
Canton de Long Vĩnh Thượng
M.M – Trần Văn Trường chef de Canton de deuxième
classe.
Huỳnh Văn Quờn,
sous chef de Canton de deuxième classe.
Nguyễn Văn Long,
conseiller provincial.
Villages de
An Hòa – Long Bình – Long Hưng – Phước Tân – Tam An
– Tam Phước – Thiết Tượng (鉄匠) – Trường Thọ.
Tạm dịch:
Tổng Long Vĩnh Thượng
Các ông:
- Trần Văn Trường, chánh cai tổng hạng nhì.
- Huỳnh Văn Quờn,
phó cai tổng hạng nhì.
- Nguyễn Văn
Long, hội đồng tỉnh hạt.
Các làng gồm:
An Hòa – Long Bình – Long Hưng – Phước Tân – Tam An
– Tam Phước – Thiết Tượng – Trường Thọ.
Diễn tiến thành lập
và thay đổi xã An Hòa rất phức tạp. Sau 1975 có lúc xã này sáp nhập với Tân
Hưng thành xã An Hòa Hưng. Sau đó theo quyết định số 196 HĐBT ngày 12.2.1987 An
Hòa Hưng sáp nhập thêm xã Long Hưng thành ra An Hòa Hưng. Từ mươi năm nay lại
tách ra làm hai xã An Hòa và Long Hưng.
(Phần tiếp theo)
CHƯƠNG II- THIÊN VĂN CHÍ (天文誌) = TINH DÃ CHÍ (星野誌))
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét