Đàn Tiên Nông và Tịch Điền- Thành Biên Hòa.
Kinh tế nước ta xưa vốn phụ thuộc về nghề trồng trọt, nên các triều đại phong kiến ngày ấy, rất xem trọng việc phát triển nông nghiệp. Theo truyền thuyết từ xa xưa, Thần Nông người đã dạy dân trồng ngũ cốc và chế tạo ra cày bằng gỗ, dạy dân cày cấy. Người xem thiên văn, sự vận hành của trời đất rồi chế soạn ra lịch để chế định các thời vụ trong năm; nên hậu thế đã suy tôn làm thủy tổ nông nghiệp!
Các vị vua của các triều đại phong kiến xưa đã nhận định: Muốn đất nước thái bình, thịnh trị; ngoài việc tổ chức, phát triển quân đội hùng mạnh, bảo vệ biên cương, chính thể cai trị; thì còn phải lo cho dân ấm no, giàu có. Dân yên tâm chăm lo, cày cấy, tạo nên mùa màng bội thu dưới sự khuyến khích, theo dõi, khích lệ của chính quyền.
Vì thế để khuyến khích dân chúng chăm lo cày cấy, từ thời xa xưa vào mùa xuân, nhà vua đích thân khai mạc lễ hội Tịch Điền (闢田). Nhà Vua sau khi tế cáo Thần Nông tại đàn Tiên Nông, sau đó đích thân ra cày cấy để làm gương, khuyến khích nông nghiệp.
Lễ tịch điền được tiến hành đầu tiên dưới thời vua Lê Đại Hành (941-1005).
Thư tịch chép: “Mùa xuân năm 987, Vua lần đầu cày ruộng tịch điền ở núi Đọi (Duy Tiên, Hà Nam) được một hũ nhỏ vàng. Lại cày ở núi Bàn Hải, được một hũ nhỏ bạc, nhân đó đặt tên là ruộng Kim Ngân (Kim Ngân điền). Sau đó nghi lễ này được tiếp tục và trở thành một truyền thống kéo dài đến thời nhà Trần. Vào thời nhà Lý, vua Lý Thái Tông là người rất chăm lo cho nông nghiệp nước nhà. Vua đã nhiều lần tự mình xuống ruộng cày. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có chép:
Mùa đông, tháng 10 (năm 1030) được mùa to. Ngày 14, vua thân ra ruộng ở Điểu Lộ xem gặt, nhân đổi tên cánh ruộng ấy gọi là ruộng Vĩnh Hưng...Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1 (năm 1032), vua ngự đến Tín Hương ở Đỗ Động Giang, cày ruộng tịch điền, có nhà nông dâng một cây lúa chiêm có 9 bông thóc. Xuống chiếu đổi gọi ruộng ấy là ruộng Ứng Thiên...Mùa xuân, tháng 3 (năm 1042) vua ngự ra cửa biển Kha Lãm cày ruộng tịch điền rồi về kinh sư...Mùa xuân, tháng 2 (năm 1038), vua ngự ra cửa Bố Hải cày ruộng tịch điền. Sai hữu ty dọn cỏ đắp đàn. Vua thân tế Thần Nông, tế xong tự cầm cày để làm lễ tự cày. Các quan tả hữu có người can rằng: Đó là công việc của nông phu, bệ hạ cần gì làm thế? Vua nói: Trẫm không tự cày thì lấy gì làm xôi cúng, lại lấy gì cho thiên hạ noi theo?
Nói xong đẩy cày ba lần rồi thôi. Tháng 3, vua về Kinh sư”.
Từ khi làm chủ miền nam, Nguyễn Ánh đã hiểu rõ và cho vận dụng tinh thần ấy rất triệt để và thành công. Ông bắt đầu thi hành các chính sách phát triển nông nghiệp vào giữa năm 1789; chính sách lấy sản xuất nông nghiệp làm trọng trên cơ sở số lớn đất đai phì nhiêu nhưng lại bị bỏ hoang nhiều vì cộng đồng di dân chưa định hình và chiến tranh liên miên ở vùng nam bộ. Nguyễn Ánh cho đặt nhóm quan điền tuấn gồm 12 người, kiểm soát bốn dinh miền Nam là Phiên Trấn, Trấn Biên, Trấn Vĩnh, Trấn Định để đốc thúc nhân dân làm việc nông nghiệp.
Sau khi thống nhất đất nước, lễ hội được khôi phục và tiến hành long trọng, thành kính dưới thời nhà Nguyễn. Tháng 2 năm 1827 vua Minh Mạng ban hành lời chỉ dụ về cày ruộng tịch điền như sau:
“Ðời xưa vua cày ruộng tịch điền, để lấy thứ làm lễ đơm cúng trong tế Giao Miếu, hơn nữa nhân đó mà xem xét nghề nông, khuyến khích người cày, đó quả là việc lớn trong chính sách của bậc đế vương vậy. Lễ lớn đẩy cày 3 nhát, trong sử sách vẫn còn có thể thấy được chứng cớ rành rành. Nước ta đời Trần đời Lê thỉnh thoảng cũng có cử hành lễ này, nhưng phần nhiều đều vãn lược. Trẫm từ khi đích thân trông coi chính sự đến nay, một lòng chăm lo đến đời sống của dân, luôn luôn chú ý dẫn dắt nhân dân chăm lo nghề gốc. Hiện nay triều đình nhàn rỗi, chính là lúc giảng cầu chế độ của người xưa. Trẫm đã sai phủ Thừa Thiên xem đất ở hai phường Hậu Sinh và An Trạch trong kinh thành”
Sau đó theo qui thức của bộ Lễ đã được Vua phê chuẩn chọn nơi làm ruộng Tịch Điền, bộ Công cho khởi công xây dựng một tòa Cụ Phục điện ( nơi đặt nông cụ, thay y phục), bên trái dựng đài Quan canh (xem cày), bên phải là đàn Tiên Nông, một kho thần, một đình Thu Cốc (thu thóc lúa), hai tòa bếp thần và kho thần cùng hai sở tường gạch, hố chôn (muôn sinh sau khi tế) và đường thủy cống nước.
Năm 1832 vua Minh Mạng chuẩn y lời đề nghị của bộ Lễ cho các tỉnh thành chọn đất rộng rải phía đông tỉnh thành (bên trái của cửa Nam thành trì) làm Tịch Điền, phía tây ruộng (bên phải) dựng đàn Tiên Nông. Tỉnh Biên Hòa là một trong những tỉnh thành phụng chỉ triều đình sớm nhất; và theo đúng điển chế ban hành. Tỉnh thần chọn khu ruộng tại phường Bình Trước làm Tịch Điền (nay tại phường Thống Nhất).
Địa bạ Biên Hòa năm 1836 chép:
Huyện Phước Chánh, Tổng Phước Vinh Thượng, phường Bình Trước, ở xứ Cốc Tuyền (suối Cốc).
-Đông giáp địa phận thôn Tân Mai, có lập cột gỗ làm giới.
-Tây giáp các thôn Tân Lân và Bình Thành, lại giáp thôn Tân Phong (Phước Vĩnh Trung), đều có cột gỗ làm giới.
-Nam giáp các thông Vinh Thạnh, Phước Lư và Tân Mai, đều có cột gỗ làm giới.
-Bắc giáp thôn Tân Quan Đông (Phước Vinh Hạ), có lập cột gỗ làm giới.
-Thực canh ruộng đất 80.7.13.3:
*Điền tô điền 70.8.12.5 (74 sở).
*Đất trồng dâu mía 9.9.0.8 (35 sở).
-Tịch Điền 3.0.0.0.
-Đất quan xưởng 1 sở.
-Mộ địa 1 khoảnh.
-Đất gò đồi 1 khoảnh.
-Đất rừng núi 1 khoảnh.
Đàn Tiên Nông xây một tầng hướng nam, vuông 3 trượng 6 thước, cao 2 thước 7 tấc. Nền lót gạch, bốn mặt đều có xây 9 bậc cấp để lên xuống. Trên vọng đài, có màn che bàn vải xanh. Chu quanh có lan can cao 2 thước (~0,9m). Nơi phượng môn, ngách bên trong, có đặt biển đề:
“ Đế mạng xuất dục”
Phía ngoài đề:
“Vi thiên hạ tiên”
Bên trái là khu Tịch điền, bên phải là đài Quan canh là chỗ để quan xem cày cấy, và có nhà để thay y phục.
Phía tây bắc: Nhà thần khố, thần trù (chứa đồ tế khí, dụng cụ nấu bếp làm đồ cúng).
Đông bắc: Kho lương lẫm (chứa lúa gặt ở Tịch Điền, dùng vào việc cúng tế ở Văn Miếu, đàn Xã Tắc, đàn Tiên Nông, miếu Thành Hoàng…)
Có xây một lò để đốt lửa, về phía nam đặt 1 hố để chôn các muông sinh sau khi tế. Đặt sở điền canh có bày lộ bộ, ở trong vườn Vĩnh Thạnh, để hàng năm, quan đến diển tập trước nghi lễ làm ruộng. Sai chọn 2 người phu đàn thường trực, để quét dọn và canh gác các nhà kho, cơ sở.
Nghi lễ cúng Tiên Nông và Tịch Điền được tỉnh thần nghiêm cẩn tổ chức theo điển lệ của triều đình ban. Trước ngày lễ, cho sắm sửa phẩm vật cúng gốm: trâu, dê, heo (tam sinh), xôi đậu, rượu vò, hương đèn, hoa quả, lụa bạch…
Cụ Lương Văn Lựu trong Biên Hòa sử lược có kể lại quanh cảnh tế Tiên Nông ( năm đầu tiên 1832) :
…Ngày chánh lễ, trời còn khuya mà tiếng trống đã nổi lên báo dục quân lính ra sắp đội ngủ. Cờ xí, ngựa voi cũng tiếp theo nghiêm chỉnh. Đến 6 giờ sáng, quan Tổng đốc Khâm mạng đội mũ văn công, mặc mãng bào, nịt ngọc đái. Thân ngồi trên võng điều, hai bên che lọng xanh (16 bông bèo). võng quan vừa ra khỏi chính môn, trên Thành bắn 7 phát pháo lịnh.
Dẫn đường là cờ tiết mao và ban nhạc diễu hành. Đội lính thân binh, mủ đỏ, áo hoa, chia đi 2 bên cầm tàn xanh, quạt vã và các thứ phan.
Đội cấm binh mặc áo giáp, lưng đeo ống đựng tên, vai mang cung; tay cầm khí giới: Súng điểu thương (hỏa mai), thần cơ, gậy kim ngô, nghi đạo, đinh ba thếp vàng.
Tinh binh mặc áo đỏ, cầm cờ ngũ hành, long phụng.
Tiếp đến là đoàn nhạc công và ca sinh. Cuối cùng là đoàn kỵ mã cầm tinh kỳ. Các đội đặt dưới quyền chỉ huy của quan lãnh binh quản cơ suất đội.
Đoàn võng quan, binh mã, lễ nhạc theo đường lớn trước cổng thành hướng bắc, ra khỏi thành và tiến về hướng đông để tiến về khu Tịch Điền (hướng từ đường Phan Đình Phùng đến chùa Cô Hồn, đến ngã tư cổng II phi trường rẽ phải vào đường Nguyễn Ái Quốc, đến trường Ngô Quyền vào hẻm hủ tíu Minh Phước, xuống đến đình Bình Trước rẽ phải vào khu ruộng Lân Thành, Vĩnh Thạnh là tới khu Tịch Điền).
Đám rước đến đàn Tiên Nông thì các lễ phẩm đã bày sẵn, quan tổng đốc chủ lễ, được thỉnh lên niệm hương, quan tuần phủ làm bồi tế và các quan bố chánh sứ, án sát sứ, tri huyện, tri châu, giám thừa, thơ lại, huấn đạo, đứng vào bái vị.
Quan tán lễ xướng tế với 3 tuần rượu, các quan đồng lạy. tế xong quan tổng đốc sang nhà cụ phục thay áo. Quan tuần phủ đến thỉnh xuống cày ruộng, ban nhạc cử lễ nhạc. Quan tổng đốc mặc áo lam chẽn tay, đến chỗ cày, đứng quay mặc về hướng nam. Nhạc sư nâng chiếc cày được sơn đỏ và roi cày lấy ra từ trong thần khố. Tay phải quan cầm cày, tay trái cầm roi. Phụ tá có 2 bậc lão nông tri điền: một ông dắt bò, lưng bò phủ vải xanh, một ông đi theo bên giữ cày. Quan tuần phủ đi trước hướng dẫn. Quan bố chánh sứ đi theo sau , mang thúng lúa và vãi giống. ban nhạc hòa tấu, nhạc sinh múa cờ, ca sinh hát khúc Hòa Tử, nội dung: Mừng hội phong đăng,trồng cấy đúng mùa, thơm tho lúa thóc, đặt rượu nấu xôi, dân giàu nước mạnh, tế tự hợp thời, chúc đời thạnh trị, âu ca thái bình.
Quan cày 9 đường đi và 9 đường lại, rồi trở về đài chủ tọa. Đến lượt các nhà nông của các thôn làng sở tại, sắp hàng ở dưới làm lễ 5 lạy, rồi cùng nhau ra ruộng cày riêng để tiếp tục.
Lễ tất, quan tổng đốc được cáng võng trở về Thành. Sau 7 tiếng pháo lịnh, quan tiến ra công đường, các quan lại và ty sở trưởng chúc mừng. Quan khâm mạng thiết tiệc khoản đãi và ban thưởng the, lụa cho thuộc lại.
Tháng 10, quan bố chánh trông coi việc gặt hái, xong cho đem trữ tại thương lẫm dùng để tế các cơ sở thiết chế thờ tự do tỉnh Thành quản lý.
Quan điền tuấn thì lo lựa giống tốt để chuẩn bị gieo vào lễ tịch điền năm sau.
Thành Biên Hòa tuân chỉ dụ năm 1832 của vua Minh Mạng cho thi hành xây dựng đàn Tiên Nông và Tịch Điền ngay trong năm ấy. Lúc đó Tỉnh Thành còn thuộc Gia Định Thành, nên năm tế đầu tiên Tổng Đốc Khâm Mạng chính là Tả Quân Lê Văn Duyệt thân hành là chủ tế, tháng 8 năm 1832 Chưởng tả quân lãnh Gia Định Tổng trấn Lê Văn Duyệt mất. Sau đó, vua Minh Mạng cho bãi chức Tổng trấn Gia Định Thành, và đổi 5 trấn ra thành 6 tỉnh : Gia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang và Hà Tiên. Lại đặt các chức tổng đốc, tuần phủ, bố chính, án sát, lãnh binh như các tỉnh ở ngoài bắc. Tháng 7 năm 1833 Lê Văn Khôi là con nuôi Tả Quân nổi đậy đánh chiếm Thành Gia định. Thành Biên Hòa cũng bị đánh chiếm 2 lần. Thánh 8 năm 1835 cuộc nỗi dậy thất bại. Tháng 2 năm 1838, vua Minh Mạng sai phái 4.000 binh dân xây đắp lại Thành theo thiết kể kiểu Vauban, bằng đá ong kè bên ngoài thành đất. Như vậy vừa thực hiện lễ tế đầu tiên năm 1832 có quan Tổng Trấn Khâm mạng Lê Văn Duyệt làm chủ tế thì sau đó liên tiếp nhiều năm, do chiến tranh và khôi phục hậu quả sau chiến tranh, nên lễ tế đàn Tiên Nông và cày Tịch Điền ở Thành Biên Hòa bị đình lại. Có thể được khôi phục vào năm 1839 (sau khi đắp xong Tỉnh Thành) và liên tục được suốt 20 năm thì Pháp đánh nam kỳ!
Lễ tế Đàn tiên nông và cày Tịch Điền ở Biên Hòa chấm dứt từ năm 1859 nhưng nó cũng được nhân dân gìn giữ nét văn hóa đặc sắc ấy bằng việc tổ chức tục “ ăn xuống đồng” của nhà nông mở mùa cày cấy. Không được long trọng như xưa, một lễ đơn sơ cúng trên bờ ruộng; rồi chủ điền và các thợ cày, cấy cùng nhau thực hiện công việc mà cha ông họ đã làm suốt hơn ngàn năm qua!
Sau nhiều năm Pháp chiếm nam kỳ, đàn Tiên Nông không được bảo quản, tu sửa, đã bị hư sụp, hoang phế. Dân làng Lân Thị bèn dời tạm các biển hiệu và linh vị về lập miếu thờ tại gò huyền vũ ở phía tây bắc Đàn. Lần hồi về sau, dân xây thành ngôi đình, thờ luôn thần Thành Hoàng Bổn Cảnh; ngày nay là đình Bình Trước ở phường Thống Nhất, thành phố Biên Hòa.
Năm 2009 tại nơi đầu tiên nghi thức lễ tịch điền được diễn ra vào thế kỷ thứ 10 ở núi Đọi, Duy Tiên, Hà Nam, trên quê hương vua Lê Đại Hành, và sau nhiều năm gián đoạn, phong tục tốt đẹp này được phục hồi lại và đáo lệ hàng năm vào mùng 7 tháng Giêng. Vào năm 2010, lần đầu tiên chủ tịch nước Việt Nam (ông Nguyễn Minh Triết) cũng đã đến mặc áo nông dân cầm cày thực hiện nghi lễ tịch điền Đọi Sơn. Lễ hội góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời quảng bá tiềm năng du lịch của địa phương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
(1) Gia Định thành thông chí- Trịnh Hoài Đức
(2) Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn Biên Hòa- Nguyễn Đình Đầu.
(3) Khâm định đại nam hội điển sự lệ-Nội các triều Nguyễn.
(4) Đại Nam nhất thống chí- Nội các triều Nguyễn.
(5) Biên Hòa sử lược toàn biên- Lương Văn Lựu.
(6) Đại Nam Thực Lục, Quốc Sử Quán Triều Nguyễn
(7) Minh Mệnh Chính Yếu, Quốc Sử Quán Triều Nguyễn.
(8) Văn cúng- văn tế hán nôm ở Đồng Nai, Bảo Tàng Đồng Nai
(9) Theo Đàn xã tắc Thăng Long của Tiến sĩ Vũ Thế Khanh.
(10) Một số tài liệu trên internet và tư liệu điền dã
Bàn thờ chánh điện Đình Bình Trước
Bá tánh viếng đình và tín ngưỡng cầu thần mã ban sức khỏe
Khu vực Đàn Tiên Nông và Tịch Điền nay thuộc phường Thống Nhất.
Thần Nông cày ruộng ( tư liệu net) |
Các vị vua của các triều đại phong kiến xưa đã nhận định: Muốn đất nước thái bình, thịnh trị; ngoài việc tổ chức, phát triển quân đội hùng mạnh, bảo vệ biên cương, chính thể cai trị; thì còn phải lo cho dân ấm no, giàu có. Dân yên tâm chăm lo, cày cấy, tạo nên mùa màng bội thu dưới sự khuyến khích, theo dõi, khích lệ của chính quyền.
Vì thế để khuyến khích dân chúng chăm lo cày cấy, từ thời xa xưa vào mùa xuân, nhà vua đích thân khai mạc lễ hội Tịch Điền (闢田). Nhà Vua sau khi tế cáo Thần Nông tại đàn Tiên Nông, sau đó đích thân ra cày cấy để làm gương, khuyến khích nông nghiệp.
Lễ tịch điền được tiến hành đầu tiên dưới thời vua Lê Đại Hành (941-1005).
Thư tịch chép: “Mùa xuân năm 987, Vua lần đầu cày ruộng tịch điền ở núi Đọi (Duy Tiên, Hà Nam) được một hũ nhỏ vàng. Lại cày ở núi Bàn Hải, được một hũ nhỏ bạc, nhân đó đặt tên là ruộng Kim Ngân (Kim Ngân điền). Sau đó nghi lễ này được tiếp tục và trở thành một truyền thống kéo dài đến thời nhà Trần. Vào thời nhà Lý, vua Lý Thái Tông là người rất chăm lo cho nông nghiệp nước nhà. Vua đã nhiều lần tự mình xuống ruộng cày. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có chép:
Mùa đông, tháng 10 (năm 1030) được mùa to. Ngày 14, vua thân ra ruộng ở Điểu Lộ xem gặt, nhân đổi tên cánh ruộng ấy gọi là ruộng Vĩnh Hưng...Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1 (năm 1032), vua ngự đến Tín Hương ở Đỗ Động Giang, cày ruộng tịch điền, có nhà nông dâng một cây lúa chiêm có 9 bông thóc. Xuống chiếu đổi gọi ruộng ấy là ruộng Ứng Thiên...Mùa xuân, tháng 3 (năm 1042) vua ngự ra cửa biển Kha Lãm cày ruộng tịch điền rồi về kinh sư...Mùa xuân, tháng 2 (năm 1038), vua ngự ra cửa Bố Hải cày ruộng tịch điền. Sai hữu ty dọn cỏ đắp đàn. Vua thân tế Thần Nông, tế xong tự cầm cày để làm lễ tự cày. Các quan tả hữu có người can rằng: Đó là công việc của nông phu, bệ hạ cần gì làm thế? Vua nói: Trẫm không tự cày thì lấy gì làm xôi cúng, lại lấy gì cho thiên hạ noi theo?
Nói xong đẩy cày ba lần rồi thôi. Tháng 3, vua về Kinh sư”.
Từ khi làm chủ miền nam, Nguyễn Ánh đã hiểu rõ và cho vận dụng tinh thần ấy rất triệt để và thành công. Ông bắt đầu thi hành các chính sách phát triển nông nghiệp vào giữa năm 1789; chính sách lấy sản xuất nông nghiệp làm trọng trên cơ sở số lớn đất đai phì nhiêu nhưng lại bị bỏ hoang nhiều vì cộng đồng di dân chưa định hình và chiến tranh liên miên ở vùng nam bộ. Nguyễn Ánh cho đặt nhóm quan điền tuấn gồm 12 người, kiểm soát bốn dinh miền Nam là Phiên Trấn, Trấn Biên, Trấn Vĩnh, Trấn Định để đốc thúc nhân dân làm việc nông nghiệp.
Sau khi thống nhất đất nước, lễ hội được khôi phục và tiến hành long trọng, thành kính dưới thời nhà Nguyễn. Tháng 2 năm 1827 vua Minh Mạng ban hành lời chỉ dụ về cày ruộng tịch điền như sau:
“Ðời xưa vua cày ruộng tịch điền, để lấy thứ làm lễ đơm cúng trong tế Giao Miếu, hơn nữa nhân đó mà xem xét nghề nông, khuyến khích người cày, đó quả là việc lớn trong chính sách của bậc đế vương vậy. Lễ lớn đẩy cày 3 nhát, trong sử sách vẫn còn có thể thấy được chứng cớ rành rành. Nước ta đời Trần đời Lê thỉnh thoảng cũng có cử hành lễ này, nhưng phần nhiều đều vãn lược. Trẫm từ khi đích thân trông coi chính sự đến nay, một lòng chăm lo đến đời sống của dân, luôn luôn chú ý dẫn dắt nhân dân chăm lo nghề gốc. Hiện nay triều đình nhàn rỗi, chính là lúc giảng cầu chế độ của người xưa. Trẫm đã sai phủ Thừa Thiên xem đất ở hai phường Hậu Sinh và An Trạch trong kinh thành”
Sau đó theo qui thức của bộ Lễ đã được Vua phê chuẩn chọn nơi làm ruộng Tịch Điền, bộ Công cho khởi công xây dựng một tòa Cụ Phục điện ( nơi đặt nông cụ, thay y phục), bên trái dựng đài Quan canh (xem cày), bên phải là đàn Tiên Nông, một kho thần, một đình Thu Cốc (thu thóc lúa), hai tòa bếp thần và kho thần cùng hai sở tường gạch, hố chôn (muôn sinh sau khi tế) và đường thủy cống nước.
Năm 1832 vua Minh Mạng chuẩn y lời đề nghị của bộ Lễ cho các tỉnh thành chọn đất rộng rải phía đông tỉnh thành (bên trái của cửa Nam thành trì) làm Tịch Điền, phía tây ruộng (bên phải) dựng đàn Tiên Nông. Tỉnh Biên Hòa là một trong những tỉnh thành phụng chỉ triều đình sớm nhất; và theo đúng điển chế ban hành. Tỉnh thần chọn khu ruộng tại phường Bình Trước làm Tịch Điền (nay tại phường Thống Nhất).
Địa bạ Biên Hòa năm 1836 chép:
Huyện Phước Chánh, Tổng Phước Vinh Thượng, phường Bình Trước, ở xứ Cốc Tuyền (suối Cốc).
-Đông giáp địa phận thôn Tân Mai, có lập cột gỗ làm giới.
-Tây giáp các thôn Tân Lân và Bình Thành, lại giáp thôn Tân Phong (Phước Vĩnh Trung), đều có cột gỗ làm giới.
-Nam giáp các thông Vinh Thạnh, Phước Lư và Tân Mai, đều có cột gỗ làm giới.
-Bắc giáp thôn Tân Quan Đông (Phước Vinh Hạ), có lập cột gỗ làm giới.
-Thực canh ruộng đất 80.7.13.3:
*Điền tô điền 70.8.12.5 (74 sở).
*Đất trồng dâu mía 9.9.0.8 (35 sở).
-Tịch Điền 3.0.0.0.
-Đất quan xưởng 1 sở.
-Mộ địa 1 khoảnh.
-Đất gò đồi 1 khoảnh.
-Đất rừng núi 1 khoảnh.
Đình Bình Trước 1960S, hậu thân của Đàn Tiên Nông Tỉnh Biên Hòa (tư liệu net) |
“ Đế mạng xuất dục”
Phía ngoài đề:
“Vi thiên hạ tiên”
Bên trái là khu Tịch điền, bên phải là đài Quan canh là chỗ để quan xem cày cấy, và có nhà để thay y phục.
Phía tây bắc: Nhà thần khố, thần trù (chứa đồ tế khí, dụng cụ nấu bếp làm đồ cúng).
Đông bắc: Kho lương lẫm (chứa lúa gặt ở Tịch Điền, dùng vào việc cúng tế ở Văn Miếu, đàn Xã Tắc, đàn Tiên Nông, miếu Thành Hoàng…)
Có xây một lò để đốt lửa, về phía nam đặt 1 hố để chôn các muông sinh sau khi tế. Đặt sở điền canh có bày lộ bộ, ở trong vườn Vĩnh Thạnh, để hàng năm, quan đến diển tập trước nghi lễ làm ruộng. Sai chọn 2 người phu đàn thường trực, để quét dọn và canh gác các nhà kho, cơ sở.
Nghi lễ cúng Tiên Nông và Tịch Điền được tỉnh thần nghiêm cẩn tổ chức theo điển lệ của triều đình ban. Trước ngày lễ, cho sắm sửa phẩm vật cúng gốm: trâu, dê, heo (tam sinh), xôi đậu, rượu vò, hương đèn, hoa quả, lụa bạch…
Cụ Lương Văn Lựu trong Biên Hòa sử lược có kể lại quanh cảnh tế Tiên Nông ( năm đầu tiên 1832) :
…Ngày chánh lễ, trời còn khuya mà tiếng trống đã nổi lên báo dục quân lính ra sắp đội ngủ. Cờ xí, ngựa voi cũng tiếp theo nghiêm chỉnh. Đến 6 giờ sáng, quan Tổng đốc Khâm mạng đội mũ văn công, mặc mãng bào, nịt ngọc đái. Thân ngồi trên võng điều, hai bên che lọng xanh (16 bông bèo). võng quan vừa ra khỏi chính môn, trên Thành bắn 7 phát pháo lịnh.
Dẫn đường là cờ tiết mao và ban nhạc diễu hành. Đội lính thân binh, mủ đỏ, áo hoa, chia đi 2 bên cầm tàn xanh, quạt vã và các thứ phan.
Đội cấm binh mặc áo giáp, lưng đeo ống đựng tên, vai mang cung; tay cầm khí giới: Súng điểu thương (hỏa mai), thần cơ, gậy kim ngô, nghi đạo, đinh ba thếp vàng.
Tinh binh mặc áo đỏ, cầm cờ ngũ hành, long phụng.
Tiếp đến là đoàn nhạc công và ca sinh. Cuối cùng là đoàn kỵ mã cầm tinh kỳ. Các đội đặt dưới quyền chỉ huy của quan lãnh binh quản cơ suất đội.
Đoàn võng quan, binh mã, lễ nhạc theo đường lớn trước cổng thành hướng bắc, ra khỏi thành và tiến về hướng đông để tiến về khu Tịch Điền (hướng từ đường Phan Đình Phùng đến chùa Cô Hồn, đến ngã tư cổng II phi trường rẽ phải vào đường Nguyễn Ái Quốc, đến trường Ngô Quyền vào hẻm hủ tíu Minh Phước, xuống đến đình Bình Trước rẽ phải vào khu ruộng Lân Thành, Vĩnh Thạnh là tới khu Tịch Điền).
Đám rước đến đàn Tiên Nông thì các lễ phẩm đã bày sẵn, quan tổng đốc chủ lễ, được thỉnh lên niệm hương, quan tuần phủ làm bồi tế và các quan bố chánh sứ, án sát sứ, tri huyện, tri châu, giám thừa, thơ lại, huấn đạo, đứng vào bái vị.
Quan tán lễ xướng tế với 3 tuần rượu, các quan đồng lạy. tế xong quan tổng đốc sang nhà cụ phục thay áo. Quan tuần phủ đến thỉnh xuống cày ruộng, ban nhạc cử lễ nhạc. Quan tổng đốc mặc áo lam chẽn tay, đến chỗ cày, đứng quay mặc về hướng nam. Nhạc sư nâng chiếc cày được sơn đỏ và roi cày lấy ra từ trong thần khố. Tay phải quan cầm cày, tay trái cầm roi. Phụ tá có 2 bậc lão nông tri điền: một ông dắt bò, lưng bò phủ vải xanh, một ông đi theo bên giữ cày. Quan tuần phủ đi trước hướng dẫn. Quan bố chánh sứ đi theo sau , mang thúng lúa và vãi giống. ban nhạc hòa tấu, nhạc sinh múa cờ, ca sinh hát khúc Hòa Tử, nội dung: Mừng hội phong đăng,trồng cấy đúng mùa, thơm tho lúa thóc, đặt rượu nấu xôi, dân giàu nước mạnh, tế tự hợp thời, chúc đời thạnh trị, âu ca thái bình.
Quan cày 9 đường đi và 9 đường lại, rồi trở về đài chủ tọa. Đến lượt các nhà nông của các thôn làng sở tại, sắp hàng ở dưới làm lễ 5 lạy, rồi cùng nhau ra ruộng cày riêng để tiếp tục.
Lễ tất, quan tổng đốc được cáng võng trở về Thành. Sau 7 tiếng pháo lịnh, quan tiến ra công đường, các quan lại và ty sở trưởng chúc mừng. Quan khâm mạng thiết tiệc khoản đãi và ban thưởng the, lụa cho thuộc lại.
Tháng 10, quan bố chánh trông coi việc gặt hái, xong cho đem trữ tại thương lẫm dùng để tế các cơ sở thiết chế thờ tự do tỉnh Thành quản lý.
Quan điền tuấn thì lo lựa giống tốt để chuẩn bị gieo vào lễ tịch điền năm sau.
Thành Biên Hòa tuân chỉ dụ năm 1832 của vua Minh Mạng cho thi hành xây dựng đàn Tiên Nông và Tịch Điền ngay trong năm ấy. Lúc đó Tỉnh Thành còn thuộc Gia Định Thành, nên năm tế đầu tiên Tổng Đốc Khâm Mạng chính là Tả Quân Lê Văn Duyệt thân hành là chủ tế, tháng 8 năm 1832 Chưởng tả quân lãnh Gia Định Tổng trấn Lê Văn Duyệt mất. Sau đó, vua Minh Mạng cho bãi chức Tổng trấn Gia Định Thành, và đổi 5 trấn ra thành 6 tỉnh : Gia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang và Hà Tiên. Lại đặt các chức tổng đốc, tuần phủ, bố chính, án sát, lãnh binh như các tỉnh ở ngoài bắc. Tháng 7 năm 1833 Lê Văn Khôi là con nuôi Tả Quân nổi đậy đánh chiếm Thành Gia định. Thành Biên Hòa cũng bị đánh chiếm 2 lần. Thánh 8 năm 1835 cuộc nỗi dậy thất bại. Tháng 2 năm 1838, vua Minh Mạng sai phái 4.000 binh dân xây đắp lại Thành theo thiết kể kiểu Vauban, bằng đá ong kè bên ngoài thành đất. Như vậy vừa thực hiện lễ tế đầu tiên năm 1832 có quan Tổng Trấn Khâm mạng Lê Văn Duyệt làm chủ tế thì sau đó liên tiếp nhiều năm, do chiến tranh và khôi phục hậu quả sau chiến tranh, nên lễ tế đàn Tiên Nông và cày Tịch Điền ở Thành Biên Hòa bị đình lại. Có thể được khôi phục vào năm 1839 (sau khi đắp xong Tỉnh Thành) và liên tục được suốt 20 năm thì Pháp đánh nam kỳ!
Lễ tế Đàn tiên nông và cày Tịch Điền ở Biên Hòa chấm dứt từ năm 1859 nhưng nó cũng được nhân dân gìn giữ nét văn hóa đặc sắc ấy bằng việc tổ chức tục “ ăn xuống đồng” của nhà nông mở mùa cày cấy. Không được long trọng như xưa, một lễ đơn sơ cúng trên bờ ruộng; rồi chủ điền và các thợ cày, cấy cùng nhau thực hiện công việc mà cha ông họ đã làm suốt hơn ngàn năm qua!
Sau nhiều năm Pháp chiếm nam kỳ, đàn Tiên Nông không được bảo quản, tu sửa, đã bị hư sụp, hoang phế. Dân làng Lân Thị bèn dời tạm các biển hiệu và linh vị về lập miếu thờ tại gò huyền vũ ở phía tây bắc Đàn. Lần hồi về sau, dân xây thành ngôi đình, thờ luôn thần Thành Hoàng Bổn Cảnh; ngày nay là đình Bình Trước ở phường Thống Nhất, thành phố Biên Hòa.
Năm 2009 tại nơi đầu tiên nghi thức lễ tịch điền được diễn ra vào thế kỷ thứ 10 ở núi Đọi, Duy Tiên, Hà Nam, trên quê hương vua Lê Đại Hành, và sau nhiều năm gián đoạn, phong tục tốt đẹp này được phục hồi lại và đáo lệ hàng năm vào mùng 7 tháng Giêng. Vào năm 2010, lần đầu tiên chủ tịch nước Việt Nam (ông Nguyễn Minh Triết) cũng đã đến mặc áo nông dân cầm cày thực hiện nghi lễ tịch điền Đọi Sơn. Lễ hội góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời quảng bá tiềm năng du lịch của địa phương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
(1) Gia Định thành thông chí- Trịnh Hoài Đức
(2) Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn Biên Hòa- Nguyễn Đình Đầu.
(3) Khâm định đại nam hội điển sự lệ-Nội các triều Nguyễn.
(4) Đại Nam nhất thống chí- Nội các triều Nguyễn.
(5) Biên Hòa sử lược toàn biên- Lương Văn Lựu.
(6) Đại Nam Thực Lục, Quốc Sử Quán Triều Nguyễn
(7) Minh Mệnh Chính Yếu, Quốc Sử Quán Triều Nguyễn.
(8) Văn cúng- văn tế hán nôm ở Đồng Nai, Bảo Tàng Đồng Nai
(9) Theo Đàn xã tắc Thăng Long của Tiến sĩ Vũ Thế Khanh.
(10) Một số tài liệu trên internet và tư liệu điền dã
Bàn thờ chánh điện Đình Bình Trước
Vật phẩm cúng tế |
Cầu Thần gia hộ bình an cho gia đình!
Ngoài lệ đến viếng cúng Thần, bá tánh còn được xem hát tuồng, một hình thức văn nghệ truyền thống đặc sắc ,đang đứng trước nguy cơ mai một!
Ngoài lệ đến viếng cúng Thần, bá tánh còn được xem hát tuồng, một hình thức văn nghệ truyền thống đặc sắc ,đang đứng trước nguy cơ mai một!
Khu vực Đàn Tiên Nông và Tịch Điền nay thuộc phường Thống Nhất.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét