(bài đăng trong tạp san Nam Bộ Đất & Người tập XIII, Hội KHLS Tp Hồ Chí Minh năm 2018)
*Lê Ngọc Quốc.
Hình 1: Nông thôn Nhật Bản cuối thế kỷ 19 (ảnh mang tính minh họa- nguồn Internet) |
1.
Lưu dân và đất mới
Vùng đất nam bộ ngày nay, theo
các tài liệu xưa ghi chép từ đầu thế kỷ 17 đã xuất hiện lưu dân từ miền ngoài
vào. Họ có thể là những cố nông đi tìm đất mới, tội đồ bỏ trốn, ngưới tránh sưu
thuế nặng nề, trốn binh dịch; là những người thích phiêu lưu, mạo hiểm,
và cả những nhóm dân công giáo bị chánh quyền đương thời
bức đạo, đe dọa tính mạng, nên bỏ chạy vào đây, nơi còn hoang vắng, thoát vòng
cương tỏa để giữ lấy đức tin.
Họ vào khai phá vùng hoang địa, tạo dựng cuộc sống mới.
Lưu dân ban đầu đối diện với đầm lầy, rừng hoang, thú dữ, chứa đựng đầy mối hiểm
nguy, với thiên nhiên cảnh vật xa lạ, chưa từng thấy bao giờ.
Đến đây xứ sở lạ lùng
Chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng kinh!
Rừng thiêng nước độc thú bầy,
Muổi kêu như sáo thổi, đỉa lội đầy như bánh canh!
Cỏ mọc thành tinh
Rắn đồng biết gáy!
(ca dao nam bộ)
Lưu dân xưa kia khi đến khai phá, lập xứ mới,
thì một trong những việc quan trọng ban đầu là định danh cho cuộc đất ấy. Địa
danh các xứ ở nam bộ thời mới khẩn hoang lập ấp, trước khi chánh quyền vươn tay
đến để quản lý bằng những tên được ghi bằng chữ Hán lấy ý nghĩa tốt đẹp (mỹ tự);
thì đa phần thường dùng chữ nôm (địa danh dân gian, nói lên đặc tính cụ thể của
từng địa phương) để gọi như: xứ Thị Nghè, xóm Chợ Đũi, xóm Bến Nghé, miệt Gò Vắp…[1]
Địa danh dân gian thường mang tên người,
cây cỏ, cầm thú, tên các địa hình thiên nhiên, các công trình xây dựng.[2]
Trong địa bạ Minh Mạng năm 1836, phần Nam kỳ lục tỉnh; ghi chép đầu đủ tên các
tỉnh, phủ, huyện, tổng…riêng phần xã, thôn, phường, ấp, điếm, hộ, trại… Ngoài
các tên ghi bằng chữ Hán, chúng ta thấy kèm thêm tên xóm hay miệt (trong địa bạ
ghi chung là xứ), có thể đoán định các tên này là tên gốc ban đầu mà lưu dân đầu
tiên đến, định danh cho vùng đất mới mà họ khai phá:
Phước Tỉnh thôn ở xứ Giếng Bộng (Bà Rịa-
Biên Hòa), Thắng Nhứt Thuyền ở xứ Rạch Dừa, Thắng Nhị thuyền ở xứ Ghềnh Rái, Thắng
Tam thuyền ở xứ Vũng Tàu (Vũng Tàu- Biên Hòa). Hòa Mỹ thôn ở xứ Thị Nghè, Hanh
Thông Tây thôn xứ Gò Vắp, Thạnh Đa thôn xứ Cầu Sơn, Cần Thạnh thôn ở xứ Cần Giờ
(Gia Định)…
Tỉnh Định Tường theo chánh sử ghi chép,
vào năm 1679, Dương Ngạn Địch và Hoàng Tiến là tướng nhà Đại Minh chạy xuống Đại
Việt xin làm bô thần, sau đó Chúa Nguyễn đã cho họ Dương và quân tướng bản bộ,
xuôi nam vào cửa Soài Rạp, đồn quân lưu trú ở Mỹ Tho, xây dựng phố xá, ruộng vườn.
Trong địa bạ Minh Mạng chép năm 1836, chúng tôi thấy nhiều thôn mang tên nôm
kèm theo tên hành chánh: Kim Sơn thôn ở xứ Gạch Gầm, Nhơn Nhượng thôn ở xứ Vũng
Cù, Thới Sơn thôn ở xứ Cù Lao Tôn… Ở huyện Kiến Hòa, tổng Hòa Thanh chúng tôi
thấy có hai thôn ngoài mỹ danh hành
chánh là Minh Đức và Thọ Phú thì cả 2 thôn trên đều ghi thuộc xứ Nhựt Bổn (Nhật
Bản-日本).
Theo nhà nghiên cứu Lê Trung
Hoa:[3]
“Địa danh ra
đời trong những điều kiện lịch sử, địa lý nhất định. Do đó, phần lớn địa danh
mang dấu ấn của môi trường, thời đại mà nó chào đời. Có người cho rằng địa danh
giống như “vật hoá thạch”; người khác lại cho rằng đấy là những “đài kỷ niệm”.
Như vậy, qua địa danh, ta có thể biết một vùng đất, một quốc gia về các mặt địa
lý, xã hội, các công trình xây đựng, lịch sử và văn hoá. Địa danh Việt Nam cũng
thế “[sic].
Ông cho rằng:
“Ra đời trong môi trường
nào, địa danh phản ảnh hoàn cảnh địa lý ở đó. Đó là điều tất yếu vì địa danh là
sản phẩm của tư duy mà tư duy luôn phản ảnh hiện thực mà nó tiếp nhận. Hiện thực
đi vào địa danh có thể chia làm ba phần lớn. Đó là địa hình, thực vật và động vật…”
[sic].
Trong nghiên cứu về địa danh ở Sài Gòn ông nói:
“Về mặt dân tộc học, qua mặt
nghiên cứu điạ danh, ta biết được những dân tộc nào đã đã sống trên một địa bàn
nào đó. Chẳng hạn, qua địa danh thành phố, ta biết rằng các dân tộc khơ-me và
Pháp đã sinh sống ở đây”[sic].[4]
Ở Gia Định xưa có cầu Cao Miên, vì lúc bấy
giờ do một phó vương Cao Miên (khmer) lúc đó đang xin tá túc tại Bến Nghé, cho
bắt cầu qua sông để tiện việc đi lại. Vùng Chợ Lớn xưa có cầu Chà Và là cây cầu bắc qua kênh
Tàu Hủ nối với kênh Ruột Ngựa; từ thời xưa, vùng này là phố chợ của người gốc Ấn, chuyên
bán vải, nhưng người dân Việt Nam nhầm họ là người đến từ đảo Java của quần đảo
Indonesia, nên gọi trại ra thàng người Chà Và, vì vậy cây cầu ở đây được gọi là
cầu Chà Và.
Tại thành phố Hồ Chí Minh ngày nay có một số địa danh nói
lên nơi ngụ cư của ngoại kiều: xóm Tàu Ô, xóm Mọi Lèo, đất thánh Chà, suối Chà,
mạch Chà… Ngoài ra còn một số địa danh nói lên gốc tích đa số cư dân ở vùng ấy:
xóm Cai Lậy, ấp xóm Huế, xóm Phát Diệm, khu Bùi Chu.[5]
2.
Địa danh Nhật Bản (Nhựt bổn日本) trong thư tịch xưa
2.1.
Tài liệu
trong nước
Trong tác phẩm Gia Định Thành Thông Chí (chép vào khoảng đầu thế kỷ 19) củaTrịnh
Hoài Đức; mục Sơn Xuyên Chí- Trấn Định Tường, kể về các
.[10]
.[11]
Có lẽ thư tịch nước ta chép về địa danh này sớm nhất là
vào năm 1806:
“Từ cửa
sông lớn Mỹ Tho đi xuống hạ lưu...dọc sông đều có ruộng vườn, đến ngã ba sông,
tục gọi là ngã ba cửa Đại, nhánh hướng nam đi 13.020 tầm đến cửa Đại, cửa rộng
1.604 tầm, nước sâu 5 tầm 1 thước, đằng trước có hòn đảo, tục gọi là cù lao Nhật
Bản, trên đó có dân cư ước chừng 100 nhà, ở đó có đồn phân thủ để canh chừng giặc
biển”[sic].[12]
2.2.
Tài liệu nước ngoài
Trong một số bản đồ cổ thế kỷ 17, họa vùng hạ lưu sông
Mecon (Mê Kông) chúng tôi thấy các tác giả chú thích một địa danh: R.Japanse, so
sánh với bản đồ hiện tại, đó chính là sông Tiền.[13]
Vào nữa cuối thế kỷ 19, Léopold Augustin Charles Pallu de la Barrière, một sĩ quan trong đạo quân viễn chinh đánh chiếm thành Gia Định năm 1859, trong quyển hồi ký của ông có mô tả khu vực này:
Vào nữa cuối thế kỷ 19, Léopold Augustin Charles Pallu de la Barrière, một sĩ quan trong đạo quân viễn chinh đánh chiếm thành Gia Định năm 1859, trong quyển hồi ký của ông có mô tả khu vực này:
“Các nhà
viết sử người Hòa Lan chép rằng sông Mê Kông Mê Kông Mê
Kông [14]
v Địa danh có hậu tố Nhật Bản
·
Nhánh sông Mê Kông đổ ra cửa Tiểu và cửa Đại
Maritime geography and
statistics …” của James Hingston
Tuckey (1776-1816) là một nhà thám hiểm người Anh.
Trong trước tác của ông tập 3, xuất bản năm 1815, chương Empire Cochin- China
có
.[15]
Ghi chép
trong “Đại Hòa Điền Trọng Thanh Nhật Ký” được Vũ Đoàn Liên Khê trích dẫn trong
kỷ yếu hội thảo quốc tế Nhật Bản và các nước tiểu vùng sông Mekong- mối quan hệ
lịch sử:
“Đến thời Edo, thương nhân Karaya Morisukejiro đến Camphuchia đã cho neo
thuyền rộng 37m, dài 500m ngay cửa sông trong suốt 60 ngày, thuyền của Karaya
được cho là đã vào từ sông Mê kông để đến Phnom Penh.
Giữa cuối thế kỷ XVI là thời kỳ giao
thương giữa Nhật Bản và Campuchia phát triển rực rở nhất. Năm 1569, thuyền
Campuchia đã cập bến các cảng ven Kyushu, đến năm 1579, Shimazu và Ootomo đã thực
hiện chuyến đi khứ hồi giữa Nhật Bản và Campuchia. Tháng 7 năm 1593, các sứ
thuyền của Campuchia đã cập bến chính thức Hizen (Nagasaki). [sic][16]
Năm
|
AnNam
|
Tong king
|
Thuận Hóa
|
Cajian
|
Cochinchina
|
Champa
|
Cambodia
|
Siam
|
Luzon
|
1604
|
4
|
3
|
1
|
1
|
1
|
5
|
4
|
4
|
|
1605
|
3
|
2
|
1
|
5
|
4
|
||||
1606
|
2
|
1
|
1
|
3
|
4
|
3
|
|||
1607
|
1
|
1
|
4
|
4
|
4
|
||||
1608
|
1
|
1
|
1
|
1
|
|||||
1609
|
1
|
1
|
1
|
6
|
3
|
||||
1610
|
1
|
3
|
1
|
3
|
2
|
||||
1611
|
2
|
3
|
1
|
2
|
|||||
1612
|
1
|
3
|
2
|
1
|
|||||
1613
|
1
|
6
|
1
|
3
|
1
|
||||
1614
|
1
|
7
|
2
|
3
|
4
|
||||
1615
|
5
|
1
|
5
|
5
|
|||||
1616
|
1
|
4
|
1
|
||||||
1617
|
2
|
5
|
1
|
1
|
|||||
1618
|
3
|
7
|
2
|
1
|
3
|
||||
1619
|
3
|
1
|
1
|
||||||
1620
|
5
|
1
|
2
|
||||||
1621
|
1
|
2
|
1
|
4
|
|||||
1622
|
1
|
2
|
2
|
||||||
1623
|
2
|
2
|
1
|
2
|
3
|
1
|
|||
1624
|
2
|
2
|
1
|
2
|
|||||
1625
|
1
|
1
|
2
|
||||||
1626
|
1
|
||||||||
1627
|
1
|
1
|
2
|
||||||
1628
|
2
|
2
|
2
|
3
|
|||||
1629
|
1
|
1
|
1
|
||||||
1630
|
1
|
2
|
|||||||
1631
|
1
|
1
|
1
|
1
|
|||||
1632
|
2
|
3
|
4
|
2
|
|||||
1633
|
3
|
2
|
1
|
1
|
|||||
1634
|
3
|
2
|
2
|
||||||
1635
|
1
|
1
|
|||||||
Total
|
14
|
36
|
1
|
1
|
70
|
5
|
44
|
56
|
53
|
sông Mê Kông
·
Vùng đất hạ lưu
sông Mê Kông (cửa Đại)
Theo các ghi
chép của các cha đạo Dòng Tên thời kỳ ấy cùng các nghiên cứu mới nhất; người Nhật
Bản đã có mặt tại Cochichina (Đàng Trong), Cambodia (Cao Miên) và Siam (Xiêm
La) từ cuối thế kỷ 16 qua các quan hệ thương mại mua bán, đến đầu thế kỷ 17 thì
số lượng người Nhựt ở đây càng gia tăng, họ là những:
Ø
Thương
nhân, thường dân đến đây buôn bán và làm các công việc hỗ trợ.
Người công giá cuộc nổi dậy của gần 40.000 nông dân phần lớn theo
Thiên Chúa giáo (Shimabara 1637-1638); sau khi dập tắt cuộc khởi nghĩa này,
Chính quyền Mạc Phủ Nhật Bản đã thi hành chính sách Tỏa quốc (Sakoku), ngừng các hoạt động giao lưu văn hóa, kinh tế với các nước phương Tây.
Một số chiến binh và giáo dân sống sót, đã đào thoát khỏi Nhật Bản sau sự kiện
này.
3.1.
Di dân và định cư
Sau khi thống
nhất Nhật Bản, Toyotomi Hideyoshi thi hành nhiều chính sách nhằm phát triển
kinh tế. Năm 1592, ông ban lệnh Châu Ấn (Gosyuin-Jo), cho phép thuyền nhân Nhật
được vượt biển đi giao thương với các quốc gia trên thế giới, phần lớn họ đã
tìm đến các cảng thị ở khu vực Đông Nam Á[18].
Trong giai đoạn giữa những năm cuối của
thế kỷ 16 và đầu thế kỷ 17, các thương nhân Nhật di cư đến các nước trong khu vực
này, thúc đẩy mối quan hệ giữa Nhật Bản với các nước mà họ đến lưu trú, đồng thời
cải thiện sự tiếp xúc với người bản địa và người châu âu mà họ giao tiếp trong
quá trình trao đổi thương mại. Họ đã lập các khu lưu trú tại đấy (Nihomachi).
Đàn ông Nhật đã kết hôn với phụ nữ địa phương, do đó đã tạo ra các cộng đồng được
thành lập bởi con cháu họ; chính vì thế, bốn thập kỷ trước chính sách Tỏa Quốc-
Sakoku, là thời kỳ mở rộng thương mại của Nhật Bản, nhất là ở Đông Nam Á, một
khu vực mà một số lượng lớn người Nhật đã đến định cư.[19]
Theo tư liệu của các tu sĩ
Dòng Tên [20] thời gian này, hoạt động
của người Nhật ở khu vực Đông Nam Á và các vùng lân cận phát triển mạnh mẽ, họ
di cư đến: Ma Cao (Trung Quốc), Tonkin (Đàng Ngoài), Cochinchine (Đàng Trong),
Cambodia (Cao Miên), Siam (Xiêm La), Batavia (Jakarta)…Nhiều cộng đồng định cư
Nhật Bản được thành lập (được gọi là Nihonmachi trong tiếng Nhật), lớn
đáng kể nhất là ở Siam, Cambodia và Cochinchina.
Ø Siam (Bangkok)
Theo
các tài liệu giáo sĩ dòng tên và các ghi chép của người Châu Âu; thời cực thịnh
vào khoảng những năm 1620s, ở Siam có từ 1000 đến 1500 người cư trú, kiều dân
Nhật ở đây đa số là thương nhân, giáo sĩ, giáo dân công giáo và các chiến binh
lưu vong ( ). Sau các biến cố về tôn giáo ở chính quốc, số lượng người
công giáo Nhật đến lưu trú ngày càng đông; giáo xứ công giáo được thành lập vào
năm 1626, quản lý hơn 400 giáo dân. Lực lượng chiến binh Nhật tham gia tích cực
vào các cuộc biến chính trị tại Siam, nó chính là nguyên nhân chính dẫn đến sự
kiện: tháng 10 năm 1630 vua Prasat Thong của Siam lúc bấy giờ đã ra lịnh đốt
cháy khu Nihonmachi ở Siam, người Nhật một số bị giết, số bị đuổi ra khỏi Siam,
một số chạy qua Cambodia, một số đào thoát về quê hương…Đến năm 1632, chính vua
Prasat Thong vì muốn thiết lập lại nền thương mại với nước Nhật, đã thay đổi
chính sách, mời Nhật kiều đào thoát qua Cambodia trước kia, quay lại Siam. Sau
đó có khoảng hơn 300 người đã trở lại; nhưng năm sau (1633) khu Nihonmachi ở
đây lại bị cháy rụi, thiệt hại người và tài sản thật lớn…từ đó khu định cư này
tàn lụi dần, nhiều người bỏ sang định cư ở Cambodia, một số tìm cách trở về
nước.
Ø Cambodia (Phnom Penh- Ponhea Lueu)
Người nhập cư Nhật Bản đã thành
lập 2 khu phố: ở Phnom Penh năm 1614 và Ponhea Lueu vào năm 1618, và tồn tại
cho đến năm 1667; ước tính có hơn 1500 người Nhật lưu trú ở Cambodia trong thời
gian này. Tại Phnom Penh, khoảng năm 1615, đã có một giáo xứ và một cộng đồng gồm
hơn 70 giáo dân lưu trú; những năm 1620 và 1630, có ba linh mục ngưới Nhật Bản
làm việc ở đó. Nhật kiều ở đây một số phục vụ cho chính quyền sở tại, họ
nắm giữ các vị trí khá quan trọng như: hộ vệ hoặc quan chức cho hoàng gia.
Khoảng năm 1650, một trong số những người Nhật này chiếm được một địa vị quan
trọng trong triều đình Cao Miên. Một thời gian sau khu Nihonmaci ở Campuchia
cũng dần lụi tàn do chiến tranh triền miên ở nước này.
Theo
nghiên cứu mới nhất của ông Hiroshi Sugiyama năm 2004, nhóm ông đã phát hiện ra
dấu vết một ngôi làng Nhật Bản từ thế kỷ 17 tại xã Ponhea Lueu, cách Phnom Penh
25 km về phía bắc. Phát hiện dưới tầng đất cho thấy, có khoảng 100 người Nhật
đã sống trong làng trong thời gian đó và hầu hết họ đều tham gia vào các hoạt
động tôn giáo và buôn bán.
Ø Cochinchina
(Faifo- Hội An, Touran-
Đà Nẵng).
Từ
cuối thế kỷ 16, đã có người Nhật đến buôn bán và lưu trú tại Hội An và Đà Nẵng,
qua đến đầu thế kỷ 17, khi Mạc Phủ Tokugawa tăng cường bức hại đạo công giáo
thì nơi này nhận được nhiều đợt nhập cư của người Nhật. Theo tư liệu của các giáo sĩ Dòng
Tên, Đàng trong lúc bấy giờ là một trong những nơi cư ngụ ưa thích của người Nhật.
Tại đây, có thể tìm thấy 2 khu định cư, một ở Faifo (Hội An) được thành lập vào
năm 1617 và tồn tại cho đến năm 1696, và một ở Touran (Đà Nẵng) được thành lập
vào năm 1623; ước tính có khoảng 300 người Nhật sống ở Đàng Trong. Đa số là
giáo dân công giáo và họ xây dựng một nhà thờ trong khu phố của họ để các nhà
truyền giáo từ Macao đến lưu trú.
3.2.
Cộng đồng Nhật kiều Đông Nam Á và chính sách Tỏa Quốc
của Mạc Phủ
Cộng đồng Nhật kiều định cư và
phát triển ở Đông Nam Á được khoảng 4 thập niên thì Mạc Phủ Nhật ban bố chính
sách Tỏa Quốc- Sakoku. Tỏa
Quốc (khóa đất nước lại) là chính
sách đối ngoại của Nhật Bản, theo đó không người nước ngoài nào được vào Nhật Bản
hay người Nhật được rời xứ sở; kẻ vi phạm phải chịu án tử hình. Chính sách này
được Mạc phủ
Tokugawa ban
bố dưới thời Tokugawa Iemitsu qua một số chiếu chỉ và chính
sách từ năm 1633 đến năm 1639 và cho đến cuộc Minh Trị Duy
tân (1868), lệnh
cấm dân Nhật ra nước ngoài vẫn hiệu lực.
Chính sách đó là một bản án
lưu đày vĩnh viễn hàng ngàn Nhật kiều ở nước ngoài lúc bấy giờ. Họ đã hoàn toàn
bị bỏ rơi số phận của mình; không có hy vọng về hồi hương, từ giữa những năm
1630 trở đi, những người Nhật này đã phải nỗ lực tìm ra phương tiện sống còn. Họ
tham gia nhiều hơn vào việc buôn bán ở Đông Nam Á hoặc trở thành những tay lính
đánh thuê để phục vụ chính quyền địa phương. Theo tài liệu của các “bức thư
hàng năm” của Tỉnh Dòng Nhật Bản ở Ma cao; các nhà truyền giáo đã dành rất nhiều
quan tâm cho các cộng đồng này. Người Nhật lưu vong, thành lập tại một số thành
phố và các cảng trên khắp Đông Á, nơi đó họ đóng góp một phần vào sự thịnh vượng
kinh tế xã hội của các khu vực này thông qua các hoạt động thương mại hoặc quân
sự. Khả năng duy trì bản sắc cộng đồng này giảm dần theo tiến trình của thế kỷ
17, cộng đồng này cuối cùng hòa tan vào với các cộng đồng địa phương, vì họ có
rất ít khả năng tự đổi mới do thiếu người mới đến từ cố hương. Di sản văn hoá của
họ, ngôn ngữ, tôn giáo, truyền thống dần biến mất. Các tài liệu nghiên cứu
đương đại cho thấy những cộng đồng này đã không tồn tại được hơn 50 hoặc 70 năm
kể từ khi Mạc Phủ ra lệnh Tỏa Quốc"đóng cửa" Nhật Bản (1639).[21]
3.3.
Cộng đồng giáo dân công giáo ở Đàng Trong vào thế kỷ
17
Sách Lịch sử công giáo Nhật Bản[22] có ghi chép: Mối quan hệ giao thương nở rộ với Đàng
Trong là nguồn gốc định cư của người Nhật Bản tại đây. Tháng Giêng năm 1615, đoàn
thừa sai từ Macao đã đến Đàng Trong (Đà Nẵng và Hội An) với nhiệm vụ săn sóc
giáo hữu Nhật Bản. Ban đầu mặc dầu chính quyền cũng khá chống đối tôn giáo mới,
nhưng do cái lợi về giao thương với Nhật và Bồ Đào Nha, nên Chúa Đàng Trong
cũng nới lỏng. Tân tòng người bản địa cũng như người Nhật Bản vẫn được rửa tội.
Báo cáo mục vụ trong năm 1621 kể rằng: trong năm ấy đã có 82 người bản xứ và 27
người Nhật đã nhận phép rửa.
Lúc này những người Nhật theo
đạo Thiên Chúa đến Đàng Trong ngày một đông. Với tư cách là một nhà truyền
giáo, Alaxandre de Rhodes đã từng sinh sống ở Hội An (1624 – 1627), sau đó được
chuyển ra Bắc để thiết lập giáo đoàn Đàng Ngoài (1627 – 1630), ông đã chú ý đến
hiện tượng có rất nhiều tín đồ công giáo Nhật Bản di cư đến An Nam. Theo
ông:
“Hoàng đế
Nhật đã cấm hết công dân phải bỏ việc thương mại vì biết có rất nhiều giáo dân,
kể từ năm 1614 bắt đầu có sắc lệnh cấm đạo, người Nhật đã kéo nhau đi lũ lượt,
nhất là vào mùa chay, và cả ngoài mùa này nữa, mỗi năm ba hay bốn lần, để được
xưng tội với các Cha dòng biết tiếng Nhật và nhận lễ ban thánh thể và mỗi lần
ba hay bốn chiếc thuyền. Họ đi tự do, lấy cớ buôn bán. Và cứ thế gần mười năm
nay họ vẫn tiếp tục ra đi và rất mãn nguyện vì được an ủi về phần hồn”[23] .
Đàng trong dưới
thời cai trị của Chúa Sãi (1613- 1635), Chúa Thượng (1635- 1648) vì đang tập
trung tài lực cho chiến tranh với Đàng ngoài, việc cấm đạo cũng có lúc buông lỏng,
các Chúa cần bang giao với Bồ Đào Nha để mua khí giới đạn dược, hàng hóa và
công nghệ phương tây; người đứng đầu cộng đồng Nhật ở Hội An được các Chúa giao
cho làm đại diện giao thương với nước ngoài. Cho nên tuy có lúc cương quyết cấm
đạo, cầm tù, xử tử giáo dân bản địa; nhưng đối với các thừa sai ngoại quốc lúc
mạnh nhất chỉ là trục xuất; còn giáo dân người Nhật Bản sống trong khu định cư
vẫn an toàn; không bắt buộc phải thi
hành, có quyền miễn tố của người nước ngoài. Trong hoàn cảnh này, giáo dân Nhật
Bản có thể che dấu các vị thừa sai trong Nihomachi ở Hội An. Tuy nhiên đến thời
chúa Hiền (1648- 1687), thì vị thế ưu ái đó không còn nữa, nhất là sau lệnh Tỏa
Quốc của Mạc Phủ, thương thuyền Nhật không đến Hội An, mối lợi về kinh tế mà Nhật
Kiều mang đến cho nhà Chúa bị suy giảm.
“Tình hình giáo dân công giáo Nhật Bản không bao giờ hứa
hẹn tốt đẹp như xưa nữa, họ sống trong sự sợ hãi triền miên, phải bị khủng bố
và một số trong họ đã bị đẩy vào chỗ chết với giáo dân bản địa. Năm 1658, một số
giáo dân công giáo Nhật nổi bật đã bắt đầu di cư sang xứ sở khác, năm 1665, tất
cả các thừa sai nước ngoài đều bị trục xuất và sự khủng bố bao gồm mọi giáo dân
công giáo bản địa cũng như Nhật Bản.”[24]
Từ[25]
3.4.
Cộng đồng giáo dân đã đi đâu?
Theo các nghiên cứu đương đại
về dấu tích khu Nihomachi ở Hội An; căn cứ vào diện tích của số căn nhà, thì
dân số lưu trú trong khu phố cổ Hội An vào đầu thế kỷ XVII không quá 1.000 người.
Trong đó, người Nhật có khoảng 60 gia đình, nếu mỗi gia đình có trung bình từ 4
đến 5 nhân khẩu, thì có khoảng 200 đến 300 người Nhật định cư tại Hội An. Tuy
nhiên cũng có tác giả cho rằng vào đầu thế kỷ XVII đã có đến 700 người Nhật
sinh sống ở Hội An.[26]
3.5.
Đức tin của Ki tô hữu Nhật Bản
Giáo hội Nhật Bản là một giáo
hội có những trang sử tuy ngắn, nhưng đẫm máu, khi bị bách đạo, giáo hội lâm
nguy, nhiều giáo dân Nhật Bản đã tỏ ra anh dũng. Việc bách đạo đại quy mô vào
năm 1622 và xử tử công khai 50 người công giáo quyết không bỏ đạo tại Nagasaki 22/9/1622
mới chỉ là mở màn; vào năm 1637- 1638 cuộc nổi dậy Simabara có gần 35.000 giáo
dân bị giết khi đứng lên bảo vệ đức tin và sinh mạng. Tư liệu ấy nói lên tính
cách can trường, thà chết không rời bỏ đức tin; sự trung thành với đức tin
Thiên Chúa một cách kiên trì của các Ki-tô hữu ẩn danh (Kakure Kirishitan) thật đáng kinh ngạc,
có lẽ đây là trường hợp duy nhất trong lịch sử của những tín hữu không có linh
mục, không thánh lễ, không thánh đường mà giữ được đức tin và lòng yêu mến
Chúa; sau hơn 200 năm bị cô lập (từ 1638 đến 1865) người ta còn tìm thấy 20.000
giáo dân sống ẩn mình thờ phụng đức tin, bất chấp án tử.[28]
Để giữ lấy đức
tin, họ đã cam lòng rời bỏ cố hương; đến vùng đất mới được vài mươi năm, đức
tin và sinh mạng của họ lại bị xâm hại lần nữa. Cuộc bách hại đạo thời Chúa Hiền
bắt đầu từ những năm 1649, trở nên ác liệt kể từ năm 1664; lúc này giáo dân Nhật
cũng cùng chung khổ nạn như giáo dân bản địa. Một số đã bỏ đức tin để giữ lấy
sinh mạng; nhưng số còn lại vẫn can trường giữ lấy đức tin mang đi từ “Cố
hương”.
“Tình hình giáo dân công giáo Nhật Bản không bao giờ hứa
hẹn tốt đẹp như xưa nữa, họ sống trong sự sợ hãi triền miên, phải bị khủng bố
và một số trong họ đã bị đẩy vào chỗ chết với giáo dân bản địa. Năm 1658, một số
giáo dân công giáo Nhật nổi bật đã bắt đầu di cư sang xứ sở khác”.[29]
Các Ki-tô hữu
hằng thường niệm: “Thiên Chúa ở khắp mọi
nơi”*
Và thế là họ lại ra đi tìm miền
đất Hứa 1 lần nữa.
Ngày 18/8/1695, viên mại biện
người Anh Thomas Bowyear của Công ty Đông Ấn Anh đến đàm phán với Chúa Minh về
việc xây dựng một khu cư trú tại Hội An. Việc thương thảo tuy không thành,
nhưng cũng đã để lại một ghi chép:
“Hội An lúc ấy gồm một đường phố trên bờ sông và hai
dãy nhà. Số lượng chừng 100 nóc, phần lớn đều là Hoa kiều. Cũng có khoảng bốn
năm gia đình người Nhật…”[30]
Theo thông tin trên thì đến những
năm cuối thế kỷ 17, người Nhật ở Hội An còn khoảng trên dưới 20 người, một số
lượng quá ít so với con số thống kê khoảng 700 người của những năm đầu thế kỷ;
số người ấy đã đi đâu? Năm xưa chính bị bách đạo mà họ đã vượt bao hiểm nguy để
đến xứ Đàng Trong, và vài mươi năm sau đó, cũng để giữ lấy đức tin đức tin, cộng
đồng công giáo này một lần nữa đã quyết định di cư sang xứ sở khác[31].
Số dân công giáo Nhật chối bỏ
đức tin, và những kiều dân Nhật không công giáo ở lại, đã hòa nhập vào cộng đồng
bản địa. Trong luận án tiến sĩ đại học Sorbonne (Paris), ông Nguyễn Thanh Nhã
(giảng sư kinh tế học Trường Đại Học Sorbonne-Panthéon) dựa trên cơ sở nghiên cứu
của Nguyễn Thiệu Lâu, người có rất nhiều chuyên khảo về Hội An từ đầu thập niên
1940, ông cho biết:
“Các cộng đồng này đã tan rã nhanh chóng sau khi các
quan hệ trực tiếp với quê hương của họ bị cắt đứt hẳn vào năm 1637. Lâm vào
tình cảnh đơn độc, các cộng đồng này mất dần khả năng cạnh tranh với thế lực đang
lên của các thương gia người Hoa. Bị các thương gia người Hoa dần dần thay thế,
các cộng đồng người Nhật buộc phải phân tán thành từng nhóm nhỏ để hòa vào dân
cư địa phương. Đặc biệt, cộng đồng người Nhật tại Hội An, dù cố gắng chèo chống
để tồn tại, rốt cuộc, cũng buộc phải dời xuống miền tây nam bộ (basse-
Cochichine) năm 1681”.[32]
4.
Vùng đất Thủy Chân Lạp thế kỷ XVII
Những người di dân đến Thủy
Chân Lạp lúc bấy giờ không phải chỉ những người nghèo khổ, hay nững tội án bị
phát lưu, những người trốn thuế hay hạng trộm cướp hoặc bọn người thích phiêu
lưu, mà còn có cả dân công giáo di cư vì lý do trốn tránh những cuộc bách hại của
chúa Nguyễn ở trong nước[33]. Những
người di cư vào vùng Bà Rịa cùng vào thời điểm vua Cao Miên Chey Chettha II xin
cưới 1 công nương của Chúa Sãi. Năm 1623, nhà Chúa lại sai một phái bộ tới
Oudong, yêu cầu vua Chey Chettha II cho lập đồn thu thuế tại Prei Nokor (Sài Gòn) và Kas
Krobei (Bến Nghé). Sau khi vua Chey Chettha II mất (1628) thì xảy ra các biến động
tranh giành quyền lực của nội bộ vương triều Cao Miên: 1642 Nặc Ông Chân giết
chú và em họ, giành lại ngôi vua, sau đó có ý chống đối Chúa Nguyễn nên năm
1658, lực lượng quân sự của Chúa Hiền tiến vào bắt Ông đưa về Quảng Bình. Năm
1672 và 1674 hàng loạt cuộc chiến đối đầu giữa hoàng tộc Cao Miên, và quân đội
Chúa Hiền đã góp phần tham chiến; rồi tiếp đến là cuộc thâm nhập của lực lượng
chiến binh Đại Minh: Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên, làm vùng đất từ Mô-
Xoài (Bà Rịa) đến tả ngạn sông Mê Kông trở nên sôi động.
Theo các diễn biến, tình
hình thời cuộc lúc bấy giờ “cộng đồng
giáo dân Nhật ở Hội An di cư qua xứ sở khác”[34]
có thể đã chọn vùng đất còn hoang vắng, yên bình nằm bên hữu ngạn nhánh sông Mê
Kông đổ ra cửa Đại (?). Vùng đất này nằm cạnh bên hải trình của các thương thuyền
Trung Quốc được phép từ Cao Miên, Xiêm La, Batavia... đi đến cảng Nagasaki của
Nhật và ngược lại. Có thể họ đã dừng chân lưu trú tại cửa biển này, nơi đây hội
một số điều kiện cần cho họ định cư an toàn, giữ lấy đức tin; có thể liên lạc với
cố hương thông qua các thương thuyền đến Nagasaki, ước mong ngày trở về quê cha
đất tổ!
Xứ Mỹ Tho cho đến năm 1732,
trên danh nghĩa thuộc về Đàng Trong; nhưng mãi đến tận năm 1772 đạo Trường Đồn mới được thiết lập, nâng lên cấp
Dinh từ 1779, đến 1781 cải tên thành Dinh Trấn Định. Đó là phần đất trung tâm của
Dinh Trấn, nằm bên tả ngạn sông Tiền thuộc Mỹ Tho, còn phần đất bên hữu ngạn cửa
Đại, lúc ấy ắt vẫn còn hoang vắng, mê địa… “vùng ao chằm chằng chịt hiểm yếu” [35]
5.
Xứ Nhật Bản ngày nay
“Tư bề Thừa Đức
nội thôn,
đất trồng dưa
hấu ngọt ngon quá chừng!”
Nguyễn Liên
Phong từng ca ngợi sản vật chính của xứ này trong Nam Kỳ phong tục nhân vật diễn
ca (1909).Xứ Nhật Bản xưa kia gồm 2 thôn Mỹ Đức
(thời vua Tự Đức đổi thành Thừa Đức) và Thọ Phú thuộc Mỹ Tho, ngày nay thuộc huyện
Bình Đại, tỉnh Bến Tre. So với các huyện
khác trong tỉnh thì Bình Đại có phần cô lập, nằm lẻ loi trên một dãy cù lao. Xứ Nhật Bản này chiếm trọn phần đất cuối của cù lao An Hoá. Thừa Đức là một xã nghèo vị
trí không thuận lợi về cơ sở hạ tầng, giao thông, kinh tế xã hội thuần nông, chủ
yếu là nuôi trồng thủy sản, trồng hoa màu, đánh bắt thủy sản bằng các phương tiện
thô sơ rời rạc chưa tập trung, đời sống bà con gặp rất nhiều khó khăn.[36]
Khu vực nằm giữa sông Tiền và sông Hàm Luông đến đầu thế kỷ đầu 18 bao gồm
nhiều cù lao, rừng chằm, sông nước đang xen chằng chịt; đó chính điều kiện
thiên nhiên thuận lợi cho lưu dân bỏ quê hương tìm đến. Giáo dân công giáo đã
có mặt từ lâu,
và sau đó 3 họ đạo lớn đã được thành lập: Cái
Nhum (1731) ; Cái Mơn (1732) ; Cái Bông (1780)[37]…Như thế vùng hữu ngạn cửa Đại
cách đây hơn 300 năm có thể đã được một cộng đồng giáo dân Nhật chọn làm nơi cư
trú. Họ đến từ Siam, Phnom Penh, Đàng Trong và cả các nơi khác, mà ở đó cuộc sống
và đức tin họ bị bách hại. Không rõ họ lưu trú được bao lâu và ai đã đặt tên
cho xứ ấy là Nhật Bản?
Quê hương là chốn gắn bó thân
thiết với mỗi con người. Đó không chỉ là nơi có mồ mả tổ tiên ông bà, mà còn là
nơi ghi dấu những ký ức đẹp; là nơi mà tâm hồn, bản sắc văn hóa con người được
nuôi dưỡng. Lấy địa danh cố hương để đặt tên cho nơi cư trú mới là để luôn nhắc
cho thế hệ con cháu mai hậu phải luôn ghi nhớ gốc tích tổ tông; đời sau nếu có
dịp sẽ phải quay về, để thỏa nỗi niềm khát khao quê hương mà lớp tiền nhân đã gạt
nước mắt, dứt áo ra đi.
[1] Nguyễn
Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều
Nguyễn, Nam kỳ lục tỉnh, Nxb Tp Hồ Chí Minh, trg 60.
[2] Lê Trung Hoa (2003), Nguyên tắc
và phương pháp nghiên cứu địa danh (địa danh thành phố Hồ Chí Minh,
Nxb Khoa học xã hội, trg 10.
[3] PGS. TS. Lê Trung Hoa (2006), ĐỊA DANH - NHỮNG TẤM
BIA LỊCH SỬ-VĂN HOÁ CỦA ĐẤT NƯỚC.
Báo cáo
tại Hội thảo khoa học “Nâng cao chất lượng đào tạo bậc sau đại học
chuyên ngành văn hóa học” do Bộ môn Văn hóa học tổ chức tháng 1-2006.
[4] Lê Trung Hoa (2003), Nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu địa danh (địa danh thành phố Hồ
Chí Minh).
Nxb Khoa học
xã hội, trg 35.
[5] Lê
Trung Hoa (2003), Nguyên tắc và phương
pháp nghiên cứu địa danh (địa danh thành phố Hồ Chí Minh).
Nxb Khoa học xã hội, trg 134.
[6] Trịnh Hoài Đức- Lý Việt Dũng dịch và chú giải (2005), Gia Định thành thông chí, Nxb Tổng hợp
Đồng Nai, trg 54.
[7] Trịnh Hoài Đức- Lý Việt Dũng dịch và chú giải (2005), Gia Định thành thông chí, Nxb Tổng hợp
Đồng Nai, trg 57.
[10] Nguyễn
Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều
Nguyễn, tỉnh Định Tường, Nxb Tổng Hợp Tp Hồ Chí Minh, trg 238- 242.
[12] Lê Quang Định-
Phan Đăng dịch và chú giải và giới thiệu
(2005), Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí,
Nxb Thuận hóa- Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, trg 315~316.
[14] Léopold Augustin Charles Pallu de la Barrière- Dịch và bình Hoàng Phong
(2008), Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ
năm 1861, Nxb Phương Đông, trg 35~36.
[15] James Hingston (1815), Maritime geography and statistics …by
Tuckey, Topics Ocean, Commercial geography, Commerce,
Shipping Publisher London, Black, Parry & Co.sVol 3. p. 239
[16] Vũ Đoàn Liên Khê (2011),
Kỷ yếu hội thảo quốc tế “Nhật Bản và các nước tiểu vùng sông Mekong- mối quan hệ
lịch sử”.
Bài viết:
Thương mại cảng Nagasaky và các nước tiểu vùng sông Mekong thế kỷ XVI-XVII-,
công ty CP dịch vụ xuất bản giáo dục Gia
Định, trg 125.
[19] 20 Madalena Ribeiro(2001), The Japanese Diaspora in the Seventeenth
Cen tury. According to Jesuit Sources
Bulletin of Portuguese - Japanese
Studies, núm. 3, December, Universidade Nova de Lisboa, Portugal, pp. 53 - 83
[21] Madalena
Ribeiro (2001), Portuguese -
Japanese Studies, Universidade Nova de Lisboa, Portugal, núm. 3, pp 53 –
83.
[22] Joseph Jennes- Bản tiếng Việt (2008), A History of the Catholic Church in
Japan, CICM., Lịch sử Giáo Hội Công giáo Nhật Bản, Nhà Xuất Bản Tôn Giáo,
Hà Nội, trang 235~ 236.
[23] Võ Văn Hoàng
(2017),
Người Nhật ở Hội An thế kỷ XVII- XVII - Đà Nẵng- Miền Trung, những vấn
đề lịch sử văn hóa. Nxb Văn hóa văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, trg 95.
[24] * Joseph
Jennes, Bản tiếng Việt- Lịch sử Giáo Hội Công giáo Nhật Bản (2008), A
History of the Catholic Church in Japan, , CICM, Nhà Xuất Bản Tôn Giáo
Hà Nội, trang 235- 236.
* Lm Bùi Đức Sinh (2013), Giáo hội công giáo ở Việt Nam, Veritas
Edition Calary- Canada, in lần 3.
[25] Lieut. Colonel Bonifacy (1929), Tuần báo Thức tỉnh kinh tế Đông Dương (L'Eveil économique de
l'Indochine) số ra ngày chủ
nhật 28/7/1929, chuyên mục: Causeries sur L'histoire D'Annam, p. 7:
Hiên vuong fut beaucoup
plus cruel envers les chrétiens; après le martyre de neuf indigènes, il fit
paraitre un édit contre la religion. Les missionnaires furent chassés. Les
Japonais catholiques de Faifo abjurèrent; à plusieurs repri- ses des hommes
furent décapités, tan- dis que des femmes, des enfants étaient livrés aux
éléphants.
[26] Võ Văn Hoàng(2017), Người Nhật ở Hội An thế kỷ XVII- XVII, Đà Nẵng-
Miền Trung, những vấn đề lịch sử văn hóa. Nxb Văn hóa văn nghệ thành phố Hồ
Chí Minh, trg 97.
[27] Alexandre de Rhodes, bản dịch tiếng việt Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc
Xuyên (1994), Lịch sử vương quốc Đàng
Ngoài. Tủ sách Đại kết, trg 36 .
[28] Gioan Baotixita Trần Thái Thành , tài liệu:"Truyền giáo ở Á châu và một nỗi tiếc
khôn nguôi...".
[29] Joseph Jennes, Bản tiếng Việt- Lịch sử Giáo Hội
Công giáo Nhật Bản (2008), A History of the Catholic Church in
Japan, , CICM, Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội, trang 235- 236.
* Thiên
Chúa không có ở xa chúng ta đâu. Thật vậy, chính là ở trong Ngài mà ta sống,
ta cử động, ta có. (Tông đồ công vụ 17, 28)
[30] Charles B. MayBon- dịch
giả Nguyễn Thừa Hỷ (2006), Những người
Châu Âu ở nước An Nam, Nxb Thế Giới
Hà Nội, trg 154.
[31] Joseph Jennes, Bản tiếng Việt- Lịch sử Giáo Hội
Công giáo Nhật Bản (2008), A History of the Catholic Church in
Japan, , CICM, Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội, trang 235- 236.
[32] Nguyễn Thanh Nhã- dịch giả
Nguyễn Nghị (2013), Bức tranh kinh tế Việt
Nam thế kỷ XVII và XVIII, Nxb Tri Thức, trg 377.
* trích dẫn tài
liệu của Nguyễn Thiệu Lâu, Le port et la ville de Faifo au XVIII siècle, CEFEO
nº30 ,1942.
...Les relations entre le Japon et la Cochinchine
cessèrent et la Colonie japonaise se trans porta en 1681 en Basse-Cochinchine.
Les Chinois, vers le troisième quart du 17e siècle, s'implantent définitivement
à Faifo, en y créant le village de Minh- Huong.
[33] Lm Bùi Đức Sinh (2013), Giáo hội công giáo ở
Việt Nam, Veritas Edition Calary- Canada, in lần 3, trg 256.
[34] Joseph Jennes, Bản tiếng Việt- Lịch sử Giáo Hội
Công giáo Nhật Bản (2008), A History of the Catholic Church in
Japan, , CICM, Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội, trang 235- 236.
[35] Trịnh
Hoài Đức- dịch và chú giải Lý Việt Dũng (2005), Gia Định thành thông chí, Nxb Tổng hợp Đồng Nai, trg 142.
[36] Cổng thông tin điện tử tỉnh Bến Tre,
[37] http://www.giaoxugiaohovietnam.com/VinhLong/01-Giao-Phan-VinhLong-CaiNhum.htm#LỊCH
SỬ HỌ ĐẠO CÁI NHUM-WebVinhLong
Hình 2: Bản đồ cổ Amsterdam xuất bản năm 1662: số (1)- Iapanfe R. số (2) Fayfo. Nguồn: https://www.raremaps.com/ |
Hình 3: Bản đồ cổ London xuất bản năm 1720: số (1)- Iapanga R. Nguồn: https://www.raremaps.com/ |
Hình 4: Bản đồ Đông Dương thuộc Pháp, xuất bản năm 1889: số (1) R. Nhựt Bổn ở Thừa Đức- Cửa Đại Nguồn: http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/btv1b53025179v/f2.planchecontact |
1.
Nguyễn Đình Đầu
(1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn-
Nam kỳ lục tỉnh, Nxb Tp Hồ Chí Minh.
2. Lê Trung Hoa (2003), Nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu địa danh (địa danh thành phố Hồ
Chí Minh), Nxb Khoa học xã hội.
3. PGS. TS. Lê Trung Hoa (2006), ĐỊA
DANH - NHỮNG TẤM BIA LỊCH SỬ-VĂN HOÁ CỦA ĐẤT NƯỚC, Báo cáo tại Hội thảo khoa học “Nâng cao
chất lượng đào tạo bậc sau đại học chuyên ngành văn hóa học” do Bộ môn
Văn hóa học tổ chức tháng 1-2006.
4. Trịnh Hoài Đức, dịch và chú giải Lý Việt Dũng (2005), Gia Định thành thông chí, Nxb Tổng hợp
Đồng Nai.
8. Lê Quang
Định- dịch và chú giải và giới thiệu
Phan Đăng (2005), Hoàng Việt Nhất Thống
Dư Địa Chí, Nxb Thuận hóa- Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây.
10. Léopold Augustin Charles Pallu de la
Barrière, dịch và bình Hoàng Phong (2008), Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861, Nxb Phương Đông.
11. James Hingston (1815), Maritime
geography and statistics …by Tuckey, Topics Ocean, Commercial geography, Commerce, Shipping
Publisher London, Black, Parry & Co.sVol 3.
12. Kỷ yếu hội thảo quốc tế “Nhật Bản và
các nước tiểu vùng sông Mekong- mối quan hệ lịch sử”.
15.
Madalena Ribeiro (2001), The Japanese Diaspora in the Seventeenth Cen tury. According to Jesuit
Sources Bulletin of Portuguese - Japanese Studies,
Universidade
Nova de Lisboa, Portugal.
16.
Joseph Jennes, Bản tiếng Việt- Lịch sử Giáo Hội Công giáo
Nhật Bản (2008), A History of the Catholic Church in
Japan, , CICM, Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội.
17. Lm Bùi Đức Sinh (2013), Giáo hội công giáo ở Việt Nam,Veritas Edition Calary- Canada, in
lần 3.
18. Lieut. Colonel Bonifacy (1929), Tuần báo Thức tỉnh kinh tế Đông Dương (L'Eveil économique de l'Indochine)
số ra ngày chủ nhật 28/7/1929, chuyên mục: Causeries sur L'histoire D'Annam.
19. Alexandre de Rhodes, bản dịch Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên (1994), Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài, tủ sách Đại
kết,TP HCM.
20. Gioan Baotixita Trần Thái Thành, tài liệu: "Truyền giáo ở Á châu và một nỗi tiếc
khôn nguôi...".
21. Charles B.
MayBon, dịch giả Nguyễn Thừa Hỷ (2006), Những
người Châu Âu ở nước An Nam, Nxb Thế Giới Hà Nội.
22. Nguyễn Thanh Nhã, dịch giả Nguyễn Nghị (2013), Bức tranh kinh tế Việt Nam thế kỷ XVII và
XVIII, Luận án tiến sĩ đại học
Sorbonne (Paris), Nxb Tri Thức năm 2013. Trích dẫn tài liệu của Nguyễn Thiệu
Lâu, Le port et la ville de Faifo au
XVIII siècle, CEFEO nº30 ,1942.
23. Nguyễn Văn Trung (2015), Hổ sơ về lục châu học- tìm hiểu con người vùng đất mới.. Nxb Trẻ .
24. Cao Thế Dung (2003), Việt Nam công giáo sử tân biên, Nxb cơ sở Dân Chúa.
25. Nguyễn Chí Trung (2005), Cư dân Faifo- Hội An trong lịch sử, Trung tâm quản lý bảo tồn di
tích Hội An năm.
27. http://www.giaoxugiaohovietnam.com/VinhLong/01-Giao-Phan-VinhLong-CaiNhum.htm#LỊCH
SỬ HỌ ĐẠO CÁI NHUM-WebVinhLong.
28. Cổng thông tin điện tử tỉnh Bến Tre.
29. Maps 1662: https://www.raremaps.com/gallery/detail/36071/Paskaerte_Zynde_tOosterdeel_Van_Oost_Indien_met_alle_de_Eylanden_daer/Goos.html
30. Maps 1720: https://www.raremaps.com/gallery/detail/49118/A_Map_of_the_EastIndies_and_the_Adjacent_Countries_with_the_Settlements/Moll.html
Biên Hoà
*Lê Ngọc Quốc 0903906956
*Lê Ngọc Quốc 0903906956
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét