Thứ Sáu, 24 tháng 7, 2015

ĐÔ ĐỐC TRẦN THƯỢNG XUYÊN (005)

BÀI VỊ: Ông Trần Quốc Đỉnh (Tam Đệ của Đức Ông)





陳正合之神位
公乃係廣東省高州府吳川縣南三都五甲田頭村人氏
生於丙申年三月二十五日申時
終於丙申年五月初九日戌時
戊戌年三月十一日寅時寄於鎭户美祿村𥒥焒處坐艮向坤
兼寅申癸丑癸未分金

DỊCH NGHĨA:
Thần vị của Trần Chính Hiệp (Trần Quốc Đỉnh)
Ông là người làng Điền Đầu, giáp Ngũ, huyện Ngô Xuyên, phủ Cao Châu, tỉnh Quảng Đông.
Đây là linh vị của người cha quá cố của tôi thuộc hàng thứ ba trong gia đình, tên huý Thánh Âm , tên tự là Quốc Đỉnh, hiệu là Thành Am. Sanh giờ Thân ngày 25 tháng 3 năm Bính Thân, mất giờ Tuất ngày mồng chín tháng năm năm Bính Thân.
Vào giờ Dần ngày 11 tháng 3 năm Mậu Tuất được táng ở xứ Đá Lửa, làng Mỹ Lộc, Trấn Hộ. Nằm chiều Cấn hướng Khôn, luôn cả phân kim Dần Thân, Quí Sữu, Quí Mùi.
(*) Chữ nôm “đá” thường đươc viết là 𥒥 thay vì 烙 theo nguyên bản.
Hậu Học Song Hào Lý Việt Dũng phụng sao lục phiên âm và dịch nghĩa( 2015) 
Phan Văn Hoàng đánh vi tính.




Thứ Sáu, 17 tháng 7, 2015

TU VIỆN THÁNH PHAO- LÔ BIÊN HÒA, VIỆN MỒ CÔI

Tu Viện này là một cơ sở tôn giáo, có thể được xem lâu đời ở Biên Hòa (1860s)
Có một câu chuyện đã lâu lắm rồi; mỗi khi nhớ lại hay kể cho người thân nghe, lòng vẫn thấy bồi hồi.
Ngày đó bên một quán nước ven bờ sông Đồng nai, có một bạn trẻ làm chân tiếp viên, luôn vui vẻ, hoạt bát và năng động; tôi rất mến và hỏi chuyện, không ngờ chủ quán nói:
- Thấy dzậy đó mà đời nó buồn lắm anh!
- Sao vậy, thấy nó khi nào cũng tếu táo và ồn ào, vui vẻ lắm mà?
- Ừa thấy dzậy chứ nó là trẻ mồ côi, sống trong tu viện Thánh Phao-lô , quán vắng nhưng thấy nó tội nghiệp, tui kêu rảnh ra phụ, kiếm tiền học thêm, nó siêng năng học giỏi lắm!
….
Ngày ấy, những tháng ngày đầu năm 1975 đầy sôi động và đau thương; một hôm, có một người lính trẻ, ôm một đứa bé trai mới vài tháng tuổi, đến Viện gởi nhờ các Sơ chăm sóc giúp ít lâu, và “ Hẹn sẽ quay lại! ”
Thời gian trôi qua, đứa bé được tình thương các Sơ chăm sóc, lớn lên bên các bạn nhỏ đồng cảnh ngộ; nhưng từ khi có trí khôn và nghe được câu chuyện về người lính năm xưa; nó nhất quyết không rời xa tu viện (dù có nhiều nhà hảo tâm muốn xin làm con nuôi. Bao lần nó đứng xa xa, nước mắt lưng tròng, chia tay các bạn đang vui mừng trong vòng tay của bố mẹ nuôi mới!)
Các Sơ thấy lạ, hỏi:
-Con không thích theo cha mẹ nuôi? về nhà mới nè, nhiều đồ ăn nè, sướng lắm!
Nó khóc, lắc đầu quầy quậy, không nói; các Sơ gặng mãi nó mới trả lời:
- Các Sơ nói ông lính sẽ quay lại đón con mà!
...
Mọi người lặng đi khi nghe nỗi lòng của nó…ngày ấy, mỗi buổi chiều, khi các bạn đang chơi đùa trong sân, riêng nó ngồi xa một góc,dòi dõi nhìn ra cổng…

Bẳng đi khoảng 10 năm sau, gặp lại, em khoe đang làm tại công ty liên doanh lớn, thu nhập cao và mua được nhà riêng…
….Vài năm sau nữa, tình cờ gặp tại một quán nhỏ, hỏi thăm chuyện vợ con, em cười:
-Em chưa có anh ơi!
-Ủa sắm nhà riêng rồi, sao không lấy vợ?
-Hi hi, ai mà lấy em, à mà em vô lại ở trong trại, rảnh rỗi thì phụ việc thêm cho mấy Sơ!
Trong mắt em, tôi thấy có nét gợn buồn, nên không dám hỏi thêm…
....
Năm nay, tiết trời lạnh hơn mọi khi, nhà nhà đang chuẩn bị đón tết, niềm vui sum họp gia đình, đang làm cho những người tha hương nao nao; chợt nhớ tới em, không biết em có còn chờ đợi người lính năm xưa? Đã 40 năm rồi mà ! Còn người lính ấy thì bao giờ trở lại?
(cuối đông Giáp Ngọ)
2014
2014
1952
Lụt năm 1952
Mẹ tiên khởi
Những mảnh đời bé nhỏ được các mẹ dang tay ôm ấp!
2014










ĐÔ ĐỐC TRẦN THƯỢNG XUYÊN (004)

VỌNG CỐ HƯƠNG! 




Nhìn lại giang san quá tả tơi
Đêm về ngập nỗi nhớ không vơi
Người đi chất ngất mang niềm hận
Kẻ ở âm thầm nén lệ rơi
Thấy xót quê Cha lòng khắc khoải
Trông vời đất Mẹ dạ tơi bời
Trăng khuya chiếc bóng mình cô lẻ
Vọng tưởng cố hương... bỗng nghẹn lời.
(Phạm Hoài Việt- Vọng Tưởng Quê Hương)


Các thư tịch cổ của Việt Nam: Gia Định Thành Thông Chí, Đại Nam Thực Lục, Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên...đoạn nói về công nghiệp của Trần Thượng Xuyên, đều không chép tuổi tác, quê quán của Ngài. Trong Biên Hòa sử lược toàn biên xuất bản năm 1960, mục A, Danh Nhân (Tiểu Sử) - 3/ Trần Thượng Xuyên trang 150~ 151 cụ Lựu ghi: 

Trần Thắng Tài (1679? - 1714?);...Nơi xã Bửu Hòa, ấp Mỹ Khánh, tại Chùa "Thanh Long" (?) cũng có tượng đồng và linh vị thờ cụ Trần Thượng Xuyên, tự Thắng Tài, húy Trần Tướng Công (!)

Năm 1993 sau khi tìm hiểu qua tư liệu địa phương, lời lưu truyền trong dân gian và nhất là nơi một vị bô lão của đình Minh Hương Gia Thạnh (Sài Gòn), người đã từng đi tảo mộ Đức Ông nhiều năm về trước; ban quý tế đình Tân Lân ( đại diện là ông Tám Hiền và ông Huỳnh Văn Út) đã đến chùa Thanh Lương xem bài vị được cho là của Đức Ông, và từ đó phát hiện ra khu mộ của Đức Ông tại làng Mỹ Lộc, Xã Tân Mỹ, huyện Tân Uyên tỉnh Bình Dương.





係廣東省高州府川縣南都五甲田頭村人氏



向巽庚戌
Dịch nghĩa:
Thần vị của Trần Chính Hiệp.
Công là người thuộc thôn Điền Đầu, giáp Ngũ, đô Nam Tam , huyện Ngô Xuyên, phủ Cao Châu, tỉnh Quảng Đông. Đây là linh vị của người cha qua đời của tôi thuộc hàng thứ hai trong gia đình, tên húy là Kỷ Thánh, tên tự là Thượng Xuyên, sanh giờ Dậu ngày mồng ba tháng 11 năm Ất MùiMất giờ Mùi ngày mồng 8 tháng giêng năm Canh Thìn . Vào giờ Thìn , ngày 16 tháng 11 năm Mậu Tí, được táng ở núi Mỹ Lộc Trấn Hộ nằm theo chiều Kiền hướng Tốn gồm cả phân kim Canh Tuất Giáp Thìn. 


Đức Ông quy y và được phong Hộ Pháp Tam Bảo Tôn Thần tại Chùa Thanh Lương- Biên Hòa (theo lời kể của trụ trì chùa Thanh Lương, cố lão Hòa Thượng Thích Thiện Khải)

Theo trên, Đức Ông sinh năm Ất Mùi, quy chiếu theo sử xưa, Đức Ông đến nước ta vào năm Kỷ Mùi 1679, thì năm sinh chỉ có thể là năm Ất Mùi 1655 là hợp lý. Về năm mất, năm Canh Thìn (?), thế kỷ 18 có 2 năm Canh Thìn: 1700 và 1760; không thể là năm 1700, vì theo Đại Nam liệt truyện tiền biên, năm Ất Mùi 1715 Đức Ông còn cầm binh dẹp loạn Chân Lạp; còn năm 1760 thì khó có thể ! có lẽ vì vậy mà trong một bản dịch khác, có điều chỉnh từ Canh Thìn(1700) thành Canh Tí (1720)...


Bài vị ghi Đức Ông mất năm Canh Thìn, đến năm Mậu Tí mới táng tại núi Mỹ Lộc; trong thế kỷ 18 có 2 năm Mậu Tí: 1708 và 1768 .

Theo tư liệu của đình Tân Lân: ...Đức Ông và người em qua đời được chôn cất ở vùng đất gọi là Xoài Côn (Rạch Xoài) thuộc tỉnh Bình Phước hiện nay. Nhưng ở đây là vùng giáp ranh với Campuchia, vì muốn đưa hài cốt của Đức Ông và người em về yên nghỉ trên vùng đất mà do chính Ngài đến định cư đầu tiên và đã chỉ huy việc khai hoang, lập ấp, tạo dựng cơ đồ sự nghiệp; nên khoảng mấy mươi năm sau (!?) Những người trong thân tộc cùng một số người Hoa là hậu duệ của Đức Ông, đã lấy hài cốt của 2 anh em Ngài đưa về an táng chung trên khu thổ mộ của thân tộc, tọa lạc tại núi Mỹ Lộc, xóm Đá Lửa, huyện Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc Bình Dương)...



Còn rất nhiều tồn nghi về tiểu sử của Đức Ông. Theo bài vị tại chùa Thanh Lương, Đức Ông tên húy là Kỷ Thánh, tên tự là Thượng Xuyên; người thôn Điền Đầu, giáp Ngũ, Đô Nam Tam, huyện Ngô Xuyên, phủ Cao Châu, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc);
Nhờ một bạn dân Sài Gòn, hiện ở Đài Loan, cũng đang làm luận văn nghiên cứu về Đức Ông; bạn ấy cho biết địa danh trên ngày nay là:  中國湛江市坡頭區南三鎮田頭村  ( Thôn Điền Đầu, trấn Nam Tam, khu Ba Đầu, thành phố Trạm Giang, Trung Quốc). Theo một số tư liệu của các nhà nghiên cứu Trung Quốc về Đức Ông , thì có nhiều sự khác biệt (?). 
http://blog.sina.com.cn/s/blog_600eba300101asjj.html
http://blog.sina.com.cn/s/blog_e8b64f4d0101g9g1.html
Có trang chép:  
陈上川(1625——1715) 号义略...
Trần Thượng Xuyên ( 1625- 1715) hiệu là Nghĩa Cơ (?)...
Và còn rất nhiều tư liệu đặc biệt khác cần xem xét, nghiên cứu sâu hơn!
Tại thôn Điền Đầu ngày nay có ngôi nhà Thờ dòng tộc Trần 
Thôn Điền đầu ngày nay nằm trên một Cù Lao có nhiều nét tương đồng với Cù Lao Phố (!)



Cù Lao Phố  có hình dáng một cái chuông 


Thôn Điền Đầu trăm năm xưa thuộc Quảng Châu Loan, nằm trong Liên Bang Đông Dương thuộc Pháp (!)

Thôn Điền Đầu  ngày nay


Khu trung tâm buồn tẻ !

Hình minh họa Đức ông trên một bài báo của Trung Quốc
(lengocquoc- mồng hai,tháng sáu, Ất Mùi)


Thứ Bảy, 11 tháng 7, 2015

Thần Nông trong các ngôi đình ở Nam bộ




Bàn thờ Thần Nông ở đình Tân Lân

Trong tín ngưỡng sơ khai của dân tộc Việt, đồng bào ta thờ thần trời, thần núi, thần sông, thần biển. Lúc bấy giờ cuộc sống của cộng đồng dân cư còn thưa thớt, con người lại phải đối mặt với bao nỗi lo, những hiểm nguy từ thiên nhiên. Cuộc sống của người Việt lúc bấy giờ chỉ là săn bắt, hái lượm. Do đó, chỉ một tiếng gió rít của khu rừng, một tiếng gầm của cọp dữ... cũng đủ làm cho người ta giật mình, lo sợ. Về sau, khi con người bắt đầu biết trồng lúa thì cũng là lúc tục thờ thần lúa ra đời. Dần dà về sau, nhiều vị thần thuộc về nông nghiệp lần lượt xuất hiện: Thần nông là vị thần gắn bó chặt chẽ với nền nông nghiệp nước ta. Thần Nông được các cư dân nông nghiệp ở vùng đồng bằng Bắc bộ hình dung là một vị thần đầu đội mũ cánh chuồn và có các động tác như trong quá trình làm mùa. Thần Nông ngồi lom khom vào đầu xuân, rồi cúi đầu xuống, và cúi rạp vào vụ gặt mùa. Về nguồn gốc Thần Nông thì truyền thuyết cho rằng: Thần Nông là vị thần cai quản phương Nam và còn có tên khác là Viêm Đế - vua xứ nóng, vị thần này xuất hiện trong tâm thức dân gian vào thời đại đá mới, khi người Đông Nam Á phát triển mạnh nghề trồng lúa. Thần Nông là ông tổ 4 đời của Kinh Dương Vương, 5 đời của Lạc Long Quân và 6 đời của Hùng Vương thứ nhất.


Ngay từ buổi đầu hình thành làng xã, Thần Nông đã được đem vào đình làng thờ chung với Thành Hoàng. Trong các lễ hội đình làng ở Bắc bộ, người ta tổ chức rất long trọng lễ hạ điền vào đầu xuân. Trong lễ hội đó, người ta cử ra một vị bô lão có uy tín trong làng, đóng vai Thần Nông với mũ áo chỉnh tề, dẫn một số nông dân xuống đồng cày cấy mấy hàng lúa đầu tiên để lấy lệ.


Ở Nam bộ, Thần Nông cũng được thờ cúng ở đình làng và gắn với các lễ hội cúng đình. Người ta cúng Thần Nông bởi vị thần này theo quan niệm dân gian là vị thần trông coi lúa gạo, dạy dân cày cấy, giúp cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu.


Bàn thờ Thần Nông được đặt trước sân đình, hoặc ở một góc sân đình, để lộ thiên, không mái che, chỉ gồm một bệ đất, có nơi người ta xây bục thờ bằng xi măng, trên đó có ghi dòng chữ “ Nền Xã Tắc”, hoặc có nơi người ta xây miếu thờ, trong miếu có tấm bảng thờ ghi hai chữ “Thần Nông” bằng chữ Hán. Ở một vài nơi, do chiến tranh tàn phá, do mưa gió của thiên nhiên nên bục thờ Thần Nông không còn nữa, người ta cũng không xây mới mà cứ để như thế cúng. Khi cúng, người ta trải chiếu ra, đặt thức cúng lên đó rồi cúng bái.



 

Một nghi thức trong lễ cúng. 
Thức cúng, ngoài hương đăng, trà quả, nhân dân ta còn cúng xôi, thịt, heo. Có nơi cúng dê, gạo, muối. Heo hoặc dê thì cúng sống (đã làm xong), để nguyên con, đem heo gác trên gối. Bên cạnh đó, là dĩa đồ lòng, heo, lông, huyết, một con dao nhỏ- ngụ ý là heo còn sống, tốt và mời thần dùng dao xẻ thịt. Đầu heo đặt quay vào nơi thờ thần.

Có nơi người ta để cả một thúng lúa lên bục thờ, có người lấy thân cây chuối kết làm cái cộ bên cạnh thúng lúa, ý cầu mong thần sẽ ban cho nhiều gạo lúa rồi dùng cái cộ này chở lúa đem về nhà.

Trên bục còn đặt thêm một tĩn nước hay một hũ nước nhỏ và một cái gáo để múc, tượng trưng cho thời buổi còn sơ khai. Bốn góc bục thờ Thần Nông được cặm bốn cây đèn cầy (nến) tượng trưng cho ngày của dương thế là đêm của âm phủ, đêm của thần thánh. Trên bục còn để một thau nước và cái khăn để chánh bái, phó bái rửa tay lau mặt khi tế lễ.

Ý niệm về Thần Nông không chỉ tồn tại trong tâm thức dân gian, mà các vương triều phong kiến trước đây cũng rất coi trọng việc cúng Thần Nông. Khi Gia Long lên ngôi năm 1802, đến năm 1806 đã cho xây đàn Nam Giao ở phía Nam Huế để tế trời ba năm một lần, và đàn Xã Tắc gần hoàng thành để cúng Thần Nông mỗi năm hai lần vào tháng hai và tháng tám. Gần đó có khu tịch điền dùng cho các vị vua chúa làm lễ xuống đồng. Về việc cày tịch điền, sử ghi như sau: “Khi cày tịch điền, vua mặc áo bào, cầm cây sơn son thếp vàng, do quan bộ lễ dâng lên, và quan Phủ Doãn Thừa Thiên dâng roi mây. Khi vua cày, cử đại nhạc, nhã nhạc và đoàn nhạc sinh múa cờ vàng. Sau khi vua đã cày đi, cày lại ba đường, thì trao lại cày và roi cho các quan Thái thường và Phủ thừa, xong lên nhà quan canh xem cày. Hoàng tử, hoàng thân cày năm đường đi và lại, rồi đến văn võ đại thần cày chín đường. Lễ tất, vua hồi cung và ban yến cho hoàng tử, hoàng thân và đại thần”.


Lễ cúng Thần Nông là một lễ hội có tính truyền thống của dân tộc ta, nói lên tính trọng nông của cư dân người Việt ngày xưa. Đồng thời nó cũng phản ánh tâm lý thờ các thần tự nhiên trong thời buổi sơ khai của dân tộc.
Cho đến nay, về cơ bản, nước ta vẫn còn là một nước nông nghiệp, cho nên việc cúng Thần Nông hàng năm cũng nhằm hướng đến một ước vọng an lành- mong cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu.


Việt Báo(Theo Báo Cần Thơ)


Lễ cúng Thần Nông trong các ngôi đình ở Nam bộ
Bàn thờ Thần Nông ở đình Tân Lân

Thứ Năm, 9 tháng 7, 2015

LÝ VIỆT DŨNG- ĐẠO VÀ ĐỜI ! (Bài 49, trang 210 )

(49)
NHÌN LẠI VẤN ĐỀ A-NAN, CA-DIẾP VÒI CỦA HỐI LỘ TRONG PHIM TÂY DU KÝ CỦA ĐẠO DIỄN DƯƠNG KHIẾT
Tôn tượng đức Thich Ca Mầu-Ni được thờ ở giữa,
 bên tả là tượng Ca-Diếp Tôn-Giả,
bên hữu là tượng A-Nan-Đà tôn giả,
là hai đại đệ tử của Đức Thích-Ca khi ngài còn ở thế-gian

Đoạn kết bộ phim dài nhiều tập “Tây Du Ký” của Trung Quốc do nữ đạo diễn tài ba Dương Khiết thực hiện chiếu trên truyền hình Đồng Nai vừa qua đi mà xem chừng âm vang của nó vẫn chưa ngân đọng, nhất là đối với tập chót diễn tả cảnh hai tôn giả A-Nan, Ca-Diếp vòi của Tam tạng khi trao kinh, thuộc hồi 98 trong nguyên văn tiểu thuyết của Ngô Thừa Ân. Hình như nỗi ẩn ức đó do đoạn phim gây ra đè nặng lên tâm tư đồng bào Phật tử, khiến một số người đã viết bài truyền đạt dư luận chỉ trích gay gắt thái độ bêu riếu Phật giáo của họ Dương. Để tiện tìm hiểu thực hư của vấn đề, xin mời quí độc giả hãy cùng chúng tôi đọc lại vài trích đoạn chủ yếu trong nguyên văn tiểu thuyết Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân ở hồi thứ 98, dịch ra như sau:



“... A-Nan và Ca-Diếp dẫn Đường Tăng xem hết các kinh xong, nói với Tam Tạng rằng: “Thánh Tăng từ Đông Độ đến đây, hẳn có chút quà cáp gì biếu chúng tôi chứ! Mau đưa ra đây để còn truyền kinh cho người mang về”. Đường Tăng nghe thế, đáp: “Đệ tử Huyền Trang này phải vượt dường sá xa xôi mới đến đây, nên chẳng chuẩn bị được gì!”. Hai vị tôn giả cười bảo: “Ngộ dữ ta, hay dữ à! Trao kinh truyền đời chẳng có một xu ten, hẳn người sau đến chết đói mất!...

... Tiến thẳng đến trước điện Đại Hùng, Hành Giả kêu nhặng lên: “Thưa Như Lai, thầy trò chúng con chịu biết bao gian khổ, từ Đông Độ lặn lội đến đây, đội ơn Như Lai cho lệnh truyền kinh, lại bị A-Nan và Ca-Diếp vòi tiền chẳng thành, hùa nhau làm bậy, cố ý đem những bốn kinh không có chữ bảo chúng con mang về. Chúng con mang thứ ấy về dùng vào việc gì được? Mong Như Lai xuống chỉ trừng trị họ”. Phật Tổ cười rằng: “Ngươi chớ khá làm ầm lên. Chuyện hai người ấy vòi của hối lộ của các ngươi ta đây biết hết, có diều không thể trao cho một cách dễ dàng được, mà cũng chẳng thể lấy không. Trước kia, các Tì- kheo Thánh tăng xuống núi từng đem kinh này đến nhà vị trưởng giả họ Triệu ở thành Xá-Vệ tụng qua một lượt, giúp cho nhà ấy, người sống yên ổn, kẻ chết siêu thoát, vậy mà chỉ đòi chủ nhà được có ba đấu, ba thăng vàng cốm mang về, ta cũng đã chê họ bán hố kinh, giá rẻ mạt, khiến con cháu đời sau chẳng có tiền tiêu dùng. Nay ngươi tay không đến nhận kinh, nên họ mới trao cho những quyển không chữ. Quyển trắng tinh cũng là chân kinh không chữ...”.

Hai vị tôn giả lại dẫn bốn thầy trò đến dưới lầu báu, gác ngọc, nhưng cũng vòi Đường Tăng quà cáp nữa. Tam Tạng không có vật gì cung phụng, bèn bảo Sa Tăng lấy chiếc bình bát bằng vàng ra, hai tay dâng lên...

... A-Nan đón lấy xong, chỉ cười tủm tỉm, bị mấy lực sĩ trông coi lầu báu, mấy người nhà bếp giữ kho nhang, cùng mấy tôn giả thủ gác ngọc, kẻ vuốt mặt, người huých lưng, lêu lêu, bĩu môi cười rộ lên bảo: “Quê! Quê! Vòi tiền cả người đi thỉnh kinh ê!”. A-Nan thẹn thùng đực mặt ra, nhưng vẫn nắm chặt chiếc bát không rời...”.

Vậy qua trích dẫn, quả trong nguyên văn Tây Du Ký, Ngô Thừa Ân có tả cảnh hai tôn giả A-Nan và Ca-Diếp vòi tiền Tam Tạng khi trao kinh và đức Thích Ca Mâu Ni chê đệ tử bán kinh thấp giá. Thế thì đạo diễn Dương Khiết đâu có dụng tâm bêu xấu dựng đứng chuyện bôi bác Phật giáo như người ta đã lên án, vì bà dàn cảnh phim đúng theo tình tiết của nguyên văn! Tuy nhiên, mặc dù không bịa đặt thêm những hoạt cảnh hoàn toàn trái với nguyên văn, nhưng khi thực hiện phim, có lẽ muốn tăng trọng phần trào lộng cho thật sinh động, họ Dương đã phần nào đi quá đà hề hóa hai đệ tử khả kính của đức Phật dưới nét mặt dung tục, trâng tráo, và vẽ vời thêm chuyện hai vị tranh ăn khi độ quả phẩm ở tiệc chay, và A-Nan có cử chỉ keo bỉ, gõ chiếc bát xem có phải thật bằng vàng không khi nhận từ tay Tam Tạng dâng lên. Những tình tiết này được hư cấu thêm, chứ trong nguyên văn không có.

Về phương diện nghệ thuật phim ảnh, thì hành động trên có thể biện minh được, nhưng ở khía cạnh tinh thần trách nhiệm đối với tín ngưỡng của quảng đại quần chúng Phật tử thì chúng ta thấy đạo diễn Dương Khiết, dù trong bối cảnh lịch sử nào, và nhìn Tây Du Ký dưới nhãn giới gì đi nữa, cũng đã có phần thiếu cân nhắc, chẳng lường đúng ảnh hưởng không hay của các thước phim trào lộng quá trớn do mình thực hiện, đã xúc phạm đến tâm tư, tình cảm, đức tin của Phật giáo đồ, khiến họ bị phiền não, thân tâm không an lạc sau khi xem phim, từ đó kéo theo sự trách cứ, thậm chí ác cảm, khổ thay lại cũng có phần quá đáng đối với cá nhân bà.

Với một phụ nữ hùng tài trong nghệ thuật và uyên bác ở học thức như bà Dương Khiết, tầm cỡ thiển lậu kiến văn như chúng tôi, ngoài những góp ý mạo muội vừa nêu trên, thật không dám và không nên có ý kiến gì phê phán thêm nữa, chỉ xin mạn phép nhắc nhở bà hai chữ “thận chi” bất hủ của tiên hiền Trung Hoa đối với những ai làm công tác văn hóa phổ cập đến quần chúng.

Bài này không đặt chủ điểm góp ý chuyện dựng phim của Dương Khiết, mà bản tâm chúng tôi, nhân có thắc mắc của đồng bào Phật tử qua một số hình ảnh của 23 tập phim Tây Du Ký, cố gắng tâm cầu, ý nghĩa triết học Phật giáo trong hành động vòi của trao kinh của A-Nan và Ca-Diếp được Ngô Thừa Ân dụng tâm hàm dụ trong tiểu thuyết Tây Du Ký lừng danh của ông.

Đối với một vấn đề Phật lý uyên áo như thế, mặc dù không phải đợi tới khi có bộ phim trình chiếu trên truyền hình chúng tôi mới để tâm suy nghĩ, mà thật sự đã đầu tư tim óc tìm hiểu từ bao nhiêu năm rồi, ngay khi vừa đọc xong nguyên tác bộ Tây Du lần đầu tiên nhưng thành tâm mà nói cho tới nay vẫn tự xét thấy những kiến giải của mình chưa có cơ sở vững chắc đủ sức thuyết phục bạn đọc qua một bài báo, nên đã bỏ công “lặn lội” đến chốn sơn môn, Thiền viện, cổ sát, u cốc, biệt thất, tham vấn các cao tăng như quí thầy: Thượng tọa Thích Viên Minh nguyên tổng thư ký giáo hội Phật giáo Nguyên thỉ Thérévada, hiện trụ trì chùa Bửu Long Biên Hòa, Hòa thượng Thích Trí Quảng trưởng ban Hoằng pháp Trung ương GHPGVN, trụ tại chùa Ấn Quang, Tổng biên tập báo Giác Ngộ, Thượng tọa Thích Giác Toàn Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, Hòa thượng Thích Thông Bửu trụ trì Tổ Đình Quán Thế Âm Phú Nhuận, Hòa thượng Thích Phước Sơn Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, Thượng tọa Thích Lệ Trang trụ trì chùa Định Thành, Giáo sư Lê Mạnh Thát Phó Viện trưởng thường trực Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam và nhiều kỳ nhân dị sĩ, trong đó tiến sĩ Đoàn Hồng Minh, một bạn thân nhưng có những kiến giải hoàn toàn trái ngược với chúng tôi và chính những bất đồng đó lại bổ xuyết cho bài viết này nhiều điểm rất là bổ ích. Các cao tăng mà chúng tôi đến tham vấn, thì vị nào cũng hoan hỉ chỉ giáo cho và hết sức động viên vượt qua ma phiền hoàn thành thiện niệm. Riêng Thượng tọa Viên Minh và Hòa thượng Tổng biên tập báo Giác Ngộ dù bận bịu nhiều Phật sự đã từ bi dành cho chút thì giờ quí báu, xem lại giùm bản thảo bài viết.

Chúng tôi nêu chuyện tham vấn các cao tăng không phải tăng trọng giá trị cùng chứng ấn tính chính xác bài viết của mình mà chỉ để tỏ rõ tầm lòng cúc cung tận tụy, tính cẩn thận cầu thị cao nhân, hầu có được yếu tố khách quan qua tổng hợp lý giải của nhiều người quanh một vấn đề Phật lý hiểm hóc.

Giờ xin trở lại đề tài chính. Trước khi tìm hiểu ý nghĩa triết học hành động vòi của trao kinh của A-Nan, Ca Diếp, tưởng nên xác định rõ mình nhìn Tây Du Ký qua nhãn giới gì?.

Có lẽ ai cũng công nhận từ xưa tới giờ, trong các danh tác tiểu thuyết của Trung Quốc, chưa có quyển nào có nhiều cách đọc, lắm kiểu nhìn như Tây Du Ký của họ Ngô. Để thuyết giải ý nghĩa truyện này, lắm người đã dùng dịch lý Nho gia, Thiền lý nhà Phật, lẽ đạo của Lão-Trang, thậm chí có người còn đem cả y lý cổ truyền ra để định luận nội dung thâm mật cuốn truyện.

Chúng tôi xin đơn cử một vài quan điểm dị biệt đối với Tây Du Ký:

- Trần Ngột Chi, trong bài tự quyển Tây Du Ký do nhà Thê Đức Đường khắc in khoảng đời Gia Tĩnh, Long Khánh nhà Minh, đã viết: “Tôn Hành Giả tức Viên Tâm, viên là thần của tim. Ngựa Bạch Long tức Mã. Ý mã là chuyển dịch của ý Bát giới là gìn giữ 8 điều răn để điều hòa khí của gan, thuộc mộc. Sa Tăng tức sông Lưu Sa, là nước của thận, thuộc thủy v.v...”.

- Tạ Triệu Xế, trong quyển Ngũ Tạp Tổ, viết: “Tây Du Ký tuy kể chuyện hoang đường, nhưng nét tung hoành biến hóa của nó, lấy tâm viên, ý mã khởi thỉ cho chuyện Ngộ Không phóng túng lên trời, xuống đất, không ai ngăn cản được, nhưng sau đó qui phục chú Khẩn Cô, khiến Tâm viên thuần phục, đến chết cũng không thay đổi. Tất cả những tình tiết đó đều là hoán dụ để chỉ việc tầm cầu “Phóng tâm”, không phải là một tác phẩm quàng xiên, tầm thường!...”.

- Trong khi đó, học giả Hồ Thích ở phần kết luận cuốn “Khảo chứng Tây Du Ký” đã viết: “... Sách này chỉ là quyển tiểu thuyết đơn thuần, bắt nguồn từ thần thoại và truyền thuyết của dân gian, chẳng có lời vi diệu, nghĩa sâu xa gì đáng bàn đến... Cùng lắm nó là một quyển hoạt kê tiểu thuyết rất thú vị, chủ trương chửi người, ngạo đời, và tính cách chửi rủa hiện ra rõ rệt, chẳng cần tầm cầu sâu xa...”.

TÔI ĐI HỌC !

KÝ ỨC TUỔI THƠ


”Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh…”
he, he, he ! Ngày ấy ở miệt miền tây nam bộ, khi má dắt tui đến gởi cho ông thầy giáo lớp năm, của một trường tư thục, hồi đó tui cũng chẳng nhớ là nóng hay lạnh nữa! chỉ nhớ mặt ổng nghiêm lắm.
Má tui: Dạ, thầy cho tui gởi thằng con, nhờ thầy dạy dỗ!
Ông thầy, áo sơ mi trắng, cổ cồn, bỏ vô thùng, nhìn lăm lăm vào tui, khi ấy đang dựa sát vào chân má, lo lắng!
Ông thầy : Chịu học hông nhỏ?
Má tui : Dạ nó đòi đi học dữ lắm thầy! ở nhà tui cũng chỉ sơ sơ cho nó mấy chữ, nó học nhanh lắm! con đọc cho thầy nghe đi con!
Tui lúc lắc đầu, nhìn ông thầy ớn quá, đọc gì nổi!
Ông thầy:
- À, giỏi ha, đọc thử thầy nghe, sợ gì mà sợ!
Lúc này tự dưng thấy ông thầy mặt hiền ! má tui lại hối thúc, hơi run nhưng tui cố lấy sức, đọc liền một tràng:
-O tròn như quả trứng gà,
-Ô thời đội mũ,
-Ơ thời mang râu !
Ông thầy cười, xoa đầu tui:
- A, giỏi giỏi! Con trai là phải mạnh dạn lên!
…Và dzậy là tui được nhận vào lớp năm đó, đzã thiệt!
Lớp năm của ông thầy có đủ thành phần, cao thấp, mập gầy, đen trắng, cỡ tui 6~ 7 tuổi, có luôn 8, 9,10…anh lớp trưởng lớn nhất 13 tuổi! (lớp toàn đực rựa không hà!)
Trong nhóm nhỏ nhất, tui được xếp ngồi bàn đầu (lớp khai giảng hơn một tuần rồi, tui bịnh nên học trễ ). Phải công nhận, đã lâu lắm rồi mà tui vẫn không quên, ông thầy vẽ đẹp lắm; học chữ Ô ổng vẽ cái Tô minh họa, chữ U thì vẽ cái Lu, chữ Ư thì vẽ bộ LƯ, chữ A thì vẽ cái Ca...Tui đắm chìm vào những giờ học thú vị của thầy, thật dễ hiểu dễ nhớ mà dzui nữa! hehehe! lúc học chữ Ê ông thầy vẽ trái Lê, tô màu vàng hấp dẫn, dzậy mà tui lại muốn ổng vẽ:  Ê con Dê ! (muốn mà hổng dám có ý kiến, hi!)

TAM CANG GIẢ- QUÂN SƯ PHỤ !
Nhưng trong lớp năm của tui lúc ấy là:
Ông Thầy- Cái Roi và Cái Thước Bảng !
1- Ông thầy: nghiêm khắc, ít cười, chỉ khi đầu tháng, thầy Hiệu trưởng xuống từng lớp phát bảng Danh Dự cho 3 học sinh đứng đầu lớp; thầy vừa xoa đầu, trao bảng Danh Dự , cười, khen giỏi, cố gắng nữa lên !
2- Cái Roi: vuông, đen nhánh, dài hơn người của tui luôn! (uy lực dũng mãnh!)
3- Cái thước bảng: lép, ngắn và rộng bản hơn cây roi (uy lực kém hơn một chút)
….
- A cái Ca
- Ô cái Tô
- E trái Me
- U cái Lu
- Ư bộ Lư….Bọn nhóc tụi tui gật gù, ê a đọc theo nhịp gõ của cái roi ông thầy lên mặt bảng đen. Cộc…Cộc…Cộc…nhịp nhàng đều đều, bỗng có giọng đọc sai nhịp (chắc có thằng buồn ngủ !)…
- CHÁT! ông thầy quất mạnh cây roi xuống mặt bàn:
- Đọc lại!
(Tui giật bắn mình lên, hổng biết tụi bạn có sao hông, chứ lần đầu tui bị xón ra quần luôn!)
Cây roi được ông thầy sử dụng gọn gàng lắm nha! lúc gõ lên bảng, lúc đập xuống bàn, lúc dứ dứ trên đầu những thằng nhóc nói chuyện trong lớp. Nhưng ấn tượng không quên của tui là bị phạm lỗi, ông thầy bắt lên úp mặt xuống bàn, vừa kể tội, vừa thông báo tội đó mấy roi và quất mạnh dzô đít! Ui cha, quặn xoắn tê tái luôn! Có thằng chịu không nổi, lén bỏ chạy về nhà, bọn tui tưởng nó thoát rồi, dzậy mà hôm sau, ba nó xách cổ nó đến lớp, còn mang thêm cho ông thầy một cây roi mới :
- Xin lỗi thầy, thằng này hư , thầy cứ đánh mạnh lên cho tui!
Má ui! Bọn nhóc tui sợ cây roi lắm, mỗi khi ra khỏi lớp (tui hổng biết ổng đi đâu?) Ông thầy gác cây roi trên hộp phấn nằm giữa bàn lớn, làm giống như thay mặt ổng canh chừng bọn quỷ nhỏ tui tui (hehehe! Đã có những âm mưu thủ tiêu cây roi , nhưng hổng có anh hùng ra tay, nên tui tui chịu phép luôn !)
Cây thước bảng được dùng để kê gạch hàng thẳng trên bảng đen, có lúc được dùng thay anh Cây roi, nhịp nhịp cảnh cáo và phạt khẽ tay mấy tội nhè nhẹ nho nhỏ : Đổ mực, quên tập, nói chuyện trong giờ học…CHÁT! Ai da , cái cảm giác tê buốt, đau nhói đến tận gan bàn chân…vẫn còn in đậm trong tui! Híc!
Ông thầy nghiêm khắc, cây roi, cây thước bảng là nỗi ám ảnh của bọn nhỏ tụi tui; nhưng ông thầy rất tận tâm, chỉ dạy tận tình, sửa chữa từng lỗi nhỏ, bài dạy của thầy rất dễ hiểu. Mỗi khi tụi tui học hành tiến bộ, điểm cao, thầy xoa đầu, khen ngợi, giọng hiền từ, ánh mắt nhìn giống ba má nhìn tui, lúc tui mang điểm tốt về khoe!
Thầy dạy bọn tui không được mày tao, trên dưới rõ ràng, nhường nhịn hòa thuận. Gặp người lớn hoặc đi học về phải khoanh tay thưa gởi, ăn nói lễ phép! Phải như dzậy...Phải như dzậy…! đũ thứ làm tụi nhỏ tui sợ lè lưỡi luôn :').
Dường như được tiêm nhiễm từ thuở đó…sau này lớn lên, trải bao năm tháng, lăn lộn, hư hao…nhưng thằng tui vẫn giữ được một số bài học từ ông thầy:
-Ra đường không đi hàng hai, hàng ba.
-Không phóng nhanh vượt ẩu.
-Đang đi gặp đám tang thì dừng lại, nếu đang đội nón thì gỡ xuống!
-Gặp hàng xóm hàng ngày, luôn chào hỏi (chào luôn bọn con nít trong xóm mới ghê !)
...........
Mới đó mà hơn nữa đời hư rồi (mượn lời Cụ Sểnh)! Cảm ơn biết bao ông thầy lớp năm của tui!
Người xưa hỏi:
Quân, Sư, Phụ - Tam Cang giả
Qua chuyến đò đầy đò ngã, cứu ai?
Người xưa đáp:
Quân, Sư, Phụ - Tam Cang giả
Qua chuyến đò đầy đò ngã…?
Thân phụ già máu huyết tình thâm
Quân lo giữ nước, an dân
Còn Sư dạy dỗ công ân cao dày
Đi chung trong chuyến đò đầy
Không may đò ngã, xin đem thân này cứu cả ba
Hiếu, trung, nghĩa được vẹn hòa
Nếu không đặng, xin tuẫn tiết trước để khỏi mang tiếng là bất nhơn!
Hiến chương nhà giáo 20/11/2014