Chủ Nhật, 24 tháng 12, 2023

LONG VƯƠNG MIẾU- TRẤN BIÊN XƯA.

 



CỔ MIẾU LONG VƯƠNG- XỨ BIÊN TRẤN XƯA

(Tục gọi Miếu Ông: Khu phố II, phường Long Bình, tp Hồ Chí Minh).

*Lê Ngọc Quốc



Long Vương Điện

(Ảnh minh hoạ copy internet)

Trong thư tịch, miếu Long Vương được nhắc đến và tính đến hiện nay, có lịch sử hơn 300 năm kể từ khi Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vâng lệnh chúa Nguyễn Phúc Chu kinh lược xứ Đồng Nai, thiết lập hành chính đầu tiên trên vùng đất phương Nam vào năm Mậu Dần – 1698. Hiện nay, ngôi miếu thuộc khu phố II, phường Long Bình, thành phố Hồ Chí Minh; Miếu Long Vương xưa thuộc dinh Trấn Biên, huyện Phước Long và sau này thuộc tỉnh tỉnh Biên Hoà.

1. Miếu Long Vương trong thư tịch

Ba nguồn thư tịch của Việt Nam đề cập miều Long Vương: Hoàng Việt nhất thống dư địa chí của Lê Quang Định (1806), Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức (1820) và Đại Nam nhất thống chí của triều Nguyễn (1865). Trong hồ sơ quân sự của người Pháp trong kế hoạch tiến đánh Biên Hòa do chuẩn Đô đốc Bonard soạn thảo (cuối năm 1861) và sau đó được tuần báo Illustration số ra ngày 01/3/1862 đăng tin, kèm bản đồ chi tiết có nhắc đến. Miếu Long Vương xuất hiện trong bản đồ địa hình Hạt tham biện Sài Gòn năm 1885 sau khi đã chiếm toàn bộ Nam kỳ, Pháp thành lập bộ máy cai trị.

- Hoàng Việt nhất thống dư địa chí (皇越一統輿地志) là sách địa chí do Lê Quang Định (1759-1813), Thượng thư bộ Binh biên soạn xong năm 1806. Đây là bộ địa chí đầu tiên của nhà Nguyễn, mở đầu cho các bộ địa chí có quy mô lớn và những phương chí sau này. Nét nổi bật nhất của bộ sách chính là việc ghi chép một cách tường tận về hệ thống giao thông đường bộ lẫn đường thủy của nước ta vào đầu thế kỷ XIX.

Trong ghi chép về Doanh Trấn Biên cho biết:“100 tầm (khoảng 230m) hai bên bờ đều có ruộng vườn và dân cư thưa thớt, đến chùa cổ Vãi Lượng, chùa ở trên gò đất bên bờ nam, ngày xưa có ni cô tên là Vãi Lượng dựng chùa này, ngày nay đã bị hư hỏng, phong cảnh chùa khá đẹp… 120 tầm, hai bên đều có ruộng vườn và dân cư thưa thớt, đến rạch Cai Quý [Quới], rạch ở bên bờ nam, rộng 10 tầm, chảy xuống hướng nam 947 tầm thì giáp ngả ba hai nhánh Mụ Lộ và Đồng Tròn, hai bên bờ đều có ruộng vườn và dân cư thưa thớt… 150 tầm, hai bên đều có ruộng vườn và dân cư thưa thớt, đến miếu Long Vương (龍王廟) thôn Phước Hòa, miếu ở bên bờ nam, tương truyền vào thời tiền triều khi Vân Long hầu [tức danh tướng Nguyễn Cửu Vân] đem quân đi chinh phạt Cao Miên, thuyền lương qua đến bến này thì bỗng dưng nổi sóng gió không tài nào đi được, Vân Long hầu bèn đến cầu đảo Long Vương linh thần thì liền có ứng nghiệm, sau khi xong việc bèn lập miếu thờ…”

- Gia Định thành thông chí (嘉 定 城 通 志) hay Gia Định thông chí (嘉 定 通 志) là một quyển địa chí của Trịnh Hoài Đức (1765- 1825) Hiệp Biện Đại học sĩ, sách viết về miền đất Gia Định bằng chữ Nho và chữ Nôm, là một sử liệu quan trọng về Nam Bộ thời nhà Nguyễn.

Quyển 6, Thành trì chí, Trấn Biên Hoà có đoạn ghi chép: “Đền Long Vương (龍王��), ở bờ nam sông Phước Giang, cách thành về phía đông 15 dặm. Đời Hiển Tông (1691-1725), Chánh thống suất Nguyễn Vân [tức danh tướng Nguyễn Cửu Vân] đi đánh Cao Miên, khi quân đến đây thấy vực sâu hiểm, dưới lòng sông có đá ngầm, nước xoáy mạnh, sóng dữ, bỗng gió to mưa lớn, rất nguy cấp, chiến thuyền hầu như khó an toàn. Bỗng thấy có ngôi đền tranh nhỏ vắng vẻ trong lùm cây bên bờ sông, hỏi ra mới đó là nơi thờ thần Long Vương. Vân Thống suất bèn cầu đảo thầm, trong chốc lát trời lại tạnh sáng, thuyền đi qua đều yên ổn. Lần đi này chỉ một trận là thành, nên ngày khải hoàn Ngài cho cho tu bổ lớn lao để đền ơn, nay đền vẫn còn nguy nga, trông rất trang nghiêm”

- Đại Nam nhất thống chí (大南一統志) là bộ sách dư địa chí, của Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn thời vua Tự Đức. Đây là bộ sách lớn nhất và quan trọng nhất về địa chí nước ta dưới thời nhà Nguyễn.  Tập 2, Tỉnh Biên Hoà, mục Đền Miếu ghi: “Đền Long Vương (龍王��): Ở thôn Long Sơn huyện Long Thành, bờ nam sông Phước Long; thờ Nhất, Nhị, Tam lang Long Vương. Đời vua Hiển Tông bản triều, suất thống Nguyễn Cửu Vân đi đánh Cao Man, đến chỗ này, thấy dưới vực sâu có gành đá nước xô sóng mạnh, giây lát lại nổi lên mưa mù gió dữ rất nguy hiểm; Ông cầu khấn liền được yên lặng, quân đi đến đâu đánh thắng đến đó, nên sau Ông dựng Đền để đền đáp, nay dân gian cầu đảo đều được linh ứng. Ở bên đền có nhiều cây cổ thụ, cây cao nhất thường có giống dơi vàng, lớn bằng con chim (dơi quạ), cánh dài đến 2 thước[thước ta khoảng 70-80cm], đến đậu cả trăm con, ai muốn bắn phải cầu khẩn mới bắn được “.

- Tài liệu của Pháp thời kỳ đầu Chiến tranh Pháp – Đại Nam

Ngày 01/09/1858, liên quân Pháp và Tây Ban Nha nổ súng tấn công Đà Nẵng mở đầu cuộc xâm lược Đại Nam. Ngày 02/02/1859, tướng De Genouilly kéo đại quân tiến xuống Nam kỳ. Ngày 18/02/1859, liên quân chiếm được thành Gia Định. Sau đó lần lượt đại đồn Chí Hoà (25/02/1861), rồi Định Tường (12/4/1861) cũng thất thủ…Lúc này trước nguy cơ chiến sự, triều đình nhà Nguyễn cho lập nhiều đồn lũy xung quanh bảo vệ thành Biên Hoà: Mỹ Hoà, Gò Công- Trau Trảu, Suối Sâu, Bình Thuận, Bình Chuẩn… Trên sông Đồng Nai, từ ngã ba Nhà Bè đến phía trước cửa thành Biên Hoà có chín cản gỗ và một cản đá. Dọc hai bờ sông có một số pháo đài bố trí súng thần công, dưới sông có một số thuyền chứa chất cháy dùng chiến thuật đánh hỏa công khi địch lọt vào trận địa. 

Theo “Bản đồ chiến trường tác chiến mới nhất ở Nam Kỳ Tuần báo Illustration số ra ngày 1/3/1862” thì khu vực Miếu Long Vương lúc bấy giờ có bố trí một pháo đài, được ghi chú là “Fort Rectangulaire de Long-Young” [Pháo đài hình chữ nhật – Long Vương].

Đồn Long Vương trong bản đồ trận đánh Biên Hoà 

của liên quân Pháp- Tây Ban Nha năm 1861

 Diễn biến trận Biên Hoà (1861) dược miêu thuật: Ngày 13-12-1861, tướng Bonard, chỉ huy trưởng quân Pháp ở Sài Gòn đã ký huấn lệnh về kế hoạch đánh chiếm Biên Hòa. Theo huấn lệnh này, lực lượng đánh chiếm Biên Hòa gồm đại đội khinh binh, do đại tá Foucault chỉ huy; đạo quân trù bị gồm 300 lính thủy quân lục chiến, 100 quân Tây Ban Nha và hai đại bác do đại tá Domenech Diego chỉ huy, đạo quân thứ ba gồm hạm thuyền (2 hạm thuyền) và lực lượng đổ bộ do thiếu tá Lebris chỉ huy. Trong kế hoạch, địch chia làm ba bước, trong đó có việc đánh chiếm Bến Gỗ để làm bàn đạp tiến quân về Biên Hòa. Ngày 14-12-1861, quân Pháp tiến đánh tỉnh Biên Hòa bằng cả đường bộ và đường thủy. 7 giờ 30 cùng ngày, Gò Công Trao Trảo rơi vào tay giặc (đại tá Comte chỉ huy). Ngày 15-12-1861, quân Pháp do Comte và Diego tiến lên đồn Mỹ Hòa, quân triều đình rút chạy. Trên đường sông Đồng Nai, hai cánh quân do Lebris và Harel chỉ huy gặp sự chống trả khá quyết liệt của quân triều đình. Tàu Alarme trúng 54 phát thần công, gẫy cả cột buồm. Phá được cản, quân Pháp tiến đánh phá các pháo đài ven sông [trong đó có đồn Long Vương], quân triều đình chống trả đến giữa đêm thì rút chạy. Sáng ngày 17-12-1861, quân thủy bộ của Pháp đã đến trước tỉnh thành Biên Hòa. Đích thân đô đốc Bonard theo chiến hạm Ondine chỉ huy trận tấn công. Chỉ sau ba loạt đạn pháo bắn rất quyết liệt, tuần phủ Nguyễn Đức Hoan và án sát Lê Khai Cẩn đã bỏ thành rút chạy, khâm sai đại thần Nguyễn Bá Nghi mang quân chạy ra Bình Thuận Ngày 18/12/1861, Liên quân tiến chiếm Thành Biên Hoà . 

2. Miếu Long Vương qua địa danh hành chính

Thời điểm 1698 đánh dấu mốc quan trọng trong cơ cấu hành chính của vùng đất phương Nam khi Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh thiết lập bộ máy quản lý đầu tiên, ổn định dân tình, hoạch định cương giới xóm làng “ Chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn”. Chưa rõ miếu Long Vương được xây dựng từ khi nào và lúc ấy địa danh hành chính tên gì, nhưng Miếu được xây dựng không thể trễ hơn năm 1705 – là thời điểm danh tướng Nguyễn Cửu Vân vâng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu, thống lĩnh quân thuỷ bộ Gia Định, tiến đánh quân Cao Miên đang cầu viện Xiêm La vào quấy rối phủ Gia Định.

Đến năm 1806, trong ghi chép của Hoàng Việt nhất thống dư địa chí thì Miếu Long Vương thuộc thôn Phước Hoà, bên bờ nam sông Phước Long [sông Đồng Nai]. Trong Gia Định thành thông chí (1820), thời Gia Long; mục cương vực chí, chúng ta thấy có tên: thôn Phước Hoà thuộc tổng Long Vĩnh, huyện Long Thành, phủ Phước Long, Trấn Biên Hoà.

Trong địa bạ Minh Mạng (1836) tỉnh Biên Hoà, huyện Long Thành, tổng Long Vĩnh Hạ, bờ nam sông Đồng Nai khu vực rạch Cai Quí [Quới], có ghi: thôn Long Thành- xứ Cai Quới [trong bản đồ hạt tham biện Sài Gòn năm 1885 ghi là R. Cai Quí-làng Long Sơn].

Làng Long Sơn nơi miếu Long Vương toạ lạc trong bản đồ 1873.

Địa giới làng Long Thành như sau: “Đông giáp thôn Bình Dương (Long Vĩnh Thượng), giáp thôn Long An, đều lấy lòng sông làm giới [sông Đồng Nai]. Tây giáp hai thôn Bình Thắng Đông, Bình Thắng Tây (tổng An Thuỷ Đông, huyện Bình An) đều lấy bờ ruộng làm giới. Nam giáp thôn Vĩnh Thuận, lấy lòng rạch làm giới [trong bản đồ hạt tham biện Sài Gòn ghi là R. Đồng Tròn]. Bắc giáp chân núi [Núi Vãi Lượng]”.

Trong Đại Nam nhất thống chí (1865) ghi: Đền Long Vương ở thôn Long Sơn huyện Long Thành, bờ nam sông Phước Long [sông Đồng Nai]. Bản đồ địa hình Hạt tham biện Sài Gòn năm 1885 (Plan topographique de l'arrondissement de Saïgon 1885)



Làng Long Sơn nơi miếu Long Vương toạ lạc trong bản đồ 1885

 cho thấy miếu Long Vương thuộc làng Long Sơn, tổng An Thuỷ, hạt Tham biện Sài Gòn. Cũng cần thông tin thêm, từ năm 1867, thực dân Pháp chiếm trọn 6 tỉnh Nam Kỳ. Sau đó, Pháp chia Nam Kỳ ra làm 6 tỉnh là Sài Gòn, Mỹ Tho, Biên Hòa, Vĩnh Long, Châu Đốc và Hà Tiên, đồng thời đặt ra 24 sở Tham biện để cai quản. Miếu Long Vương nằm ở làng Long Sơn có ranh giới bốn phía giáp  tương ứng với thôn Long Thành trong địa bạ Minh Mạng (1836).

Trong sách Địa danh hành chính Nam Bộ của Nguyễn Đình Tư, Thôn Long Sơn thuộc tổng Long Vĩnh Hạ, huyện Long Thành, phủ Phước Tuy, tỉnh Biên Hoà, triều Tự Trị, Tự Đức. Đầu thời Pháp vẫn thuộc tổng cũ. Đặt thuộc hạt thanh tra Long Thành, rồi Sài Gòn. Từ ngày 05/01/1876 gọi là làng, đổi thuộc hạt tham biện Sài Gòn, Bình Hoà, rồi Gia Định. Từ ngày 01/01/1900 thuộc tỉnh Gia Định. Từ 01/01/1918 thuộc quận Thủ Đức, cùng tỉnh. Ngày 01/01/1928 làng Long Sơn hợp với làng Vĩnh Thuận thành làng Thái Bình. Đến ngày 09/12/1939 hợp với làng Long Bửu, đổi tên thành làng Long Bình [quận Thủ Đức tỉnh Gia Định]. Sau 1956 gọi là xã Long Bình, vẫn tổng cũ, đổi  thuộc quận Dĩ An, tỉnh Biên Hoà. Ngày 10/10/1962 đổi thuộc quận Thủ Đức tỉnh Gia Định. Sau 30/4/1975, thuộc huyện Thủ Đức, thành phố Sài Gòn – Gia Định. Ngày 02/7/1976, Tp Sài Gòn – Gia Định chính thức đổi tên thành thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 06/01/1997, huyện Thủ Đức giải thể, tách làm 3 quận: Thủ Đức, quận 2, quận 9; xã Long Bình thuộc quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. Đến 2019 đổi thành phường Long Bình. Ngày 01/01/2021, chính thức thành lập thành phố Thủ Đức thuộc thành phố Hồ Chí Minh trên cơ sở sáp nhập toàn bộ diện tích và dân số của quận 2, quận 9 và quận Thủ Đức.

Hiện tại (tháng 8 năm 2025), Miếu Long Vương thuộc khu phố II, phường Long Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Phường Long Bình có diện tích 17,61 km², dân số năm 2021 là 25.614 người, mật độ dân số đạt 1.454 người/km². Phường nằm ở phía đông bắc thành phố Hồ Chí Minh, có vị trí địa lý: Phía Đông giáp tỉnh Đồng Nai với ranh giới là sông Đồng Nai; phía Tây giáp các phường Long Thạnh MỹTân Phú và Linh Trung; phía Nam giáp phường Long Phước và phía bắc giáp tỉnh Đồng Nai.

3. Tục thờ Thủy thần ở Nam Bộ  

3.1. Tín ngưỡng

Theo các tài liệu xưa, từ đầu thế kỷ XVII đã xuất hiện lưu dân từ miền Trung vào vùng đất Đồng Nai sinh sống. Những lớp di dân khai phá vùng hoang địa, tạo dựng cuộc sống mới trước những khó khăn, hiểm nguy của đầm lầy, sông nước, rừng hoang, thú dữ “Đến đây xứ sở lạ lùng. Chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng kinh” (Ca dao). Trước vùng đất hoang sơ mênh mông sông nước, lưu dân đang đem theo tín ngưỡng thờ thuỷ thần từ quê hương bổn quán vào vùng đất mới, cầu mong thần nước gia ơn cho họ được nguồn nước trong lành để sử dụng trong cuộc sống, người làm nghề nông thì cầu mưa thuận gió hoà cho mùa màng tốt tươi, người làm nghề hạ bạc (đánh bắt thuỷ sản), nghề thương hồ thì cầu xin thần phù hộ sóng yên, gió lặng…

Tín ngưỡng Thuỷ thần được lưu dân đưa vào miền đất mới phổ biến như: thần ao đầm, thần giếng, thần Rái Cá, thần Rắn, Hà Bá, Đại Càn Tứ vị Thánh nương, Thuỷ Long tôn thần… đặt điệt là tục thờ Long Vương. Long Vương là tên gọi chung cho các vị thần cai quản các vùng biển và đại dương trong thần thoại Trung Hoa và ở Việt Nam, từ xưa dân gian xem nơi nào có nước như ao, hồ, đầm, phá, sông, biển đều có Long Vương. Tục thờ Long Vương có thể là một trong các tục thờ thuỷ thần xưa nhất ở nước ta: Phú Thọ nơi được coi là đất tổ của người Việt và Lạc Long Quân cũng được xem là 1 vị Long Vương. Trong Đại Nam nhất thống chí ghi chép các nơi có miếu Long Vương, cả nước ta lúc bấy giờ chỉ có 5 tỉnh có miếu thờ Long Vương: Hưng Hoá, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Biên Hoà, Định Tường.

3.2. Miếu thờ Long Vương

Chưa có nghiên cứu khảo sát rõ các địa phương Nam Bộ hiện tại, còn có bao nhiêu cơ sở thờ thuỷ thần Long Vương. Theo Đại Nam nhất thống chí thì Nam Bộ chỉ có 2 tỉnh là có miếu thờ Long Vương.

Tỉnh  Định Tường: Miếu Long Vương thờ Nam Hải Long Vương, ở thôn Từ Linh huyện Kiến Hoà. Nam Hải Long Vương, Vua rồng ở biển Nam - một trong Tứ hải Long Vương của người Trung Hoa cũng được người Việt cổ thờ phụng. Theo khảo sát của chúng tôi, thôn Từ Linh xưa kia, nay là ấp Pháo Đài,  Phú Tân, Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang (Cù lao Lợi Quản - cửa Tiểu). Nơi này hiện có miếu Lăng Ông thờ 18 bộ cốt cá Ông. Các nhà nghiên cứu: tục thờ cá Ông (tức cá voi, cá heo, cá nhà táng và các loại cá lớn nói chung) là một tín ngưỡng dân gian vùng duyên hải miền Trung và miền Nam Việt Nam từ Thanh Hóa đến toàn bộ các tỉnh ven biển miền Nam. Đây là tín ngưỡng của cư dân vùng biển, hay còn gọi là vạn chài. Cá Ông ở đây là những con cá voi mà theo ngư dân chính là thần Nam Hải. Có thể đây chính là di tích Miếu Long Vương ở Định Tường xưa, sau bao biến thiên thăng trầm lịch sử, được người dân gìn giữ tôn tạo thờ tự, và đặt lại tên mới là Lăng Ông.

Tỉnh Biên Hoà: Miếu Long Vương thờ Đệ nhất lang, Đệ nhị lang và Đệ tam lang Long Vương. Tục thờ Tam Vị Long Vương có từ rất xưa ở miền ngoài. Vùng La Phù, Đào Xá ở Phú Thọ, vùng Ngã Ba Hạc Thái Bình… Hà Tĩnh hiện có khá nhiều nơi thờ Tam Lang Long Vương. Về Tam Vị Long Vương, sách Nghệ An phong thổ ký chép: “Xưa ở Chỉ Châu có hai vợ chồng ông Mái, mụ Mái đã luống tuổi mà chưa có con. Một hôm người vợ nhặt được ba quả trứng về nhà, chồng đem bỏ vào cái chậu. Ít lâu sau ba quả trứng nở thành ba con rắn, ông bèn thả xuống ngã ba sông, bỗng mưa gió nổi lên ầm ầm lúc sau mới lặng. Nhưng hôm sau thì ba con rắn trở về quấn quýt bên ông bà, ông đi đâu rắn cũng theo đi. Một hôm, ông ra bờ cuốc ruộng, ba con rắn bò lượn xung quanh tỏ ý rất vui vẻ, nhưng không may ông vô tình cuốc nhằm một con làm đứt đuôi. Ba con rắn cùng bỏ đi ẩn dưới vực Đan Hai. Về sau ba con rắn thành Thần được dân Chỉ Châu lập Miếu thờ gọi là Tam Lang Long vương” và đền Tam Lang Long Vương ở Chỉ Châu nay thuộc xã Thạch Lạc, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Di tích này được biết với tên đền Sắc vì tới nay còn lưu giữ được 86 đạo sắc, phần lớn phong cho các vị thần là Ông Cả, Ông Hai, Ông Ba Long Vương. Các sắc phong này có niên đại từ năm Thịnh Đức thứ 5 (1657) thời Hậu Lê đến năm Thành Thái thứ 13 (1901) thời Nguyễn. Ở Nam Bộ, tại Công Thần miếu tỉnh Vĩnh Long, nguyên là miếu Hội đồng tỉnh còn lưu trữ 85 sắc phong cổ; trong đó có 6 sắc phong Trung Đẳng thần cho ba vị: Đệ Nhất, Đệ Nhị và Đệ Tam Long Vương.

Hiện nay, miếu Long Vương thuộc địa giới của khu phố II, phường Long Bình, thành phố Hồ Chí Minh, quanh miếu không có cư dân. Việc quản lý và duy trì các lễ thức tế tự  được ban quản lý đình Thái Bình đảm trách (đình Thái Bình vốn là đình làng Vĩnh Thuận xưa), cách đó khoảng 1 km đường chim bay. Trong đình Thái Bình hiện nay, khu hội đồng nội có hương án Long Vương và bài vị Hoàng Đế. Theo hồi cố của các vị cao niên của địa phương, vào ngày 16/12 âm lịch hàng năm, người dân trong làng cùng long trọng tổ chức nghi lễ rước bài vị Thần cùng sắc phong, đi bộ từ đình làng ra tới cầu Đồng Tròn, sau đó xuống ghe di chuyển từ rạch Đồng Tròn ra sông Đồng Nai, rồi ngược dòng lên miếu Long Vương. Sau cúng bái, tế lễ rồi canh con nước để trở về làng vì thời ấy miếu nằm biệt lập, không có đường bộ để vào nên đi đường sông và phải phụ thuộc vào con nước. Sau bao năm, hiện nay khu đất quanh miếu đã được quy hoạch, và có con đường mòn nhỏ dẫn vào miếu, nên dịp cúng tế bà con đi đường bộ cũng tiện lợi hơn xưa.

4. Tạm kết

Tín ngưỡng thờ Long Vương là loại hình tín ngưỡng đặc biệt của người Việt. Miếu Long Vương tại Biên Hòa xưa – nay thuộc địa phận thành phố Thủ Đức là một trong những nơi hiếm hoi ở Nam Bộ còn lưu giữ tín ngưỡng này. Miếu Long Vương được xây dựng khá sớm, gắn với những sự kiện hình thành và phát triển từng thôn làng ở các địa bàn cư trú nói riêng và vùng đất Đồng Nai – Gia Định nói chung; trong đó có những sự kiện quan trọng trong lịch sử giữ an vùng đất phía Nam và kháng chiến chống Pháp xâm lược lần thứ nhất. Cơ sở tín ngưỡng này gắn với tập quán, tín ngưỡng và duy trì trong các hoạt động tâm linh, tinh thần trong đời sống của cư dân hiện nay. Miếu Long Vương tọa lạc trong cảnh quan mang dấu ấn đặc biệt của thiết chế tín ngưỡng cộng đồng với hàng cây cổ thụ, không gian u nhã, thâm nghiêm và sông nước. Dấu ấn tín ngưỡng và dấu tích kiến trúc hiện tồn của miếu Long Vương cần được các cơ quan về lịch sử, văn hóa nghiên cứu xếp hạng di tích lịch sử nhằm bảo tồn di sản của Nam Bộ./.

Chú thích và tài liệu tham khảo:

1. Lê Quang Định (2003), Hoàng Việt nhất thống dư địa chí – dịch giả Phan Đăng, Nhà xuất bản Thuận Hóa.

2. Trịnh Hoài Đức (2005), Gia Định thành thông chí (dịch giả Lý Việt Dũng, Huỳnh Văn Tới hiệu đính), Nhà xuất bản Tổng hợp Đồng Nai.

3. Quốc sử quan triều Nguyễn (2012), Đại Nam nhất thống chí (bản dịch Hoàng Văn Lâu) Nhà xuất bản Lao Động.

4. Biên Hoà- Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển (1998)- Ban chỉ đạo lễ kỷ niệm 300 năm vùng đất Biên Hoà Đồng Nai. Nhà xuất bản Đồng Nai.

5. Quốc sử quan triều Nguyễn (2007), Đại Nam Thực Lục (tổ phiên dịch Viện Sử Học phiên dịch) Nhà xuất bản Giáo Dục.

6. Nguyễn Đình Tư (2008), Địa danh hành chính Nam Bộ, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.

7. Trích trong: https://congdankhuyenhoc.vn/tam-lang-long-vuong-nhung-nguoi-con-theo-cha-lac-long-quan-xuong-bien-179220723214000902.htm; (truy cập ngày 20/11/2023)

8. Trích trong: https://ttltls.vinhlong.gov.vn/xem-chi-tiet-tin-tuc/id/212850 (truy cập ngày 21/11/2023)

9. Bản đồ diễn tiến hoạt động quân sự mới nhất ở Nam Kỳ - Tuần báo Illustration- Paris số ra ngày 01/3/1862

10. Carte Generale de la Cochinchine Francaise, ca 1873 (General Map of French Cochinchina)

11. Arrondissement de Saïgon 1885 - Bản đồ địa hình Hạt tham biện SAIGON 1885

(Điều chỉnh, bổ sung : Trấn Biên 08.08.2025)


.

Long Vương Điện

(Ảnh minh hoạ copy internet)

Miếu Long Vương năm 2023















Chủ Nhật, 10 tháng 12, 2023

 TRẬN THÀNH BIÊN HOÀ NĂM 1861- LÁ THƯ TỪ SÀI GÒN CỦA PH. AUDE.

Trận Thành Biên Hòa cuối năm 1861 và số phận của những người tù công giáo năm xưa cũng được một sĩ quan quân y có mặt trong trận ấy: Tiến sĩ Aude- bác sĩ giải phẫu hạng 3 của hải quân Pháp trong chiến dịch đánh chiếm nam kỳ, chứng kiến và viết thư kể cho người bạn ở quê nhà ở vùng Alberta- Aix nông thôn miền nam nước Pháp.

Sài Gòn, tàu Nữ Hoàng Eugénie ngày 28-12-1861

(tức 10 ngày sau khi liên quân chiếm được Thành Biên Hoà)

Féraud thân mến,

Tôi không thể viết cho bạn bằng chuyến tàu thư cuối cùng nhưng tôi không muốn tàu đi hôm nay mà lại không gửi cho bạn những tin sau cùng; bạn biết rằng sau khi Đô đốc Bonnard đến thì việc lên đường về Pháp của chúng tôi đã bị hoãn lại và phụ thuộc vào việc chiếm Bien Noa [Biên Hoà]. Vậy chúng tôi phải chờ, tất cả phải ở lại ít nhất là cho đến cuối tháng Ba, vì vẫn nghĩ rằng cuộc hành quân đánh chiếm Bien Noa [Biên Hoà] chỉ có thể thực hiện vào cuối tháng Giêng, khi tất cả toán quân từ Pháp đến đã tập hợp đầy đủ, nhưng đây là điều mà người ta đã thông báo trước là lấy Bien Noa [Biên Hoà] không cần đội quân Tourcos, hầu như không một người nào và những sự cố lại đi một cách nhanh như vậy, mà bây giờ chúng ta lại có quyền nói với Đô đốc:

-A chà! Ông đã nói với chúng tôi rằng chúng tôi sẽ lên đường sau vụ Bien Noa [Biên Hoà], chúng tôi đã chờ!

Những chiến binh mang quần đùi đỏ, có râu mèo xoắn lên và có cổ họng bị cứng rắn bởi rượu áp-xanh, đã có dự tính lãnh danh dự chiếm lĩnh Bien Noa [Biên Hoà] một cách huy hoàng, những quân lính An-nam đã khôn lanh, họ muốn quấy rầy quân Pháp, nên đã di tản hết.

Và đây, một vài chữ nói về chi tiết của cuộc chiến hay đúng hơn là của cuộc “dạo chơi bằng quân sự”.

Bạn biết hoặc không biết vùng Nam Kỳ mà chúng ta thèm muốn đã một năm nay; thì bây giờ chúng ta đã có trong tay, gồm sáu tỉnh mà tôi không thể nói cho bạn biết hết những cái tên rất khó, và khó có thể đọc đúng trong số đó có tỉnh Bien Noa [Biên Hoà]. Chỉ còn tỉnh này là chưa nằm trong tay chúng ta. Thật khó lòng xâm chiếm tỉnh này vì nó có biên giới là những dãy núi tạo thành vành đai thiên nhiên bảo vệ rất dễ. Ngôi làng, hay đúng hơn là thành phố Biên Hòa, tỉnh lị của toàn tỉnh, được bảo vệ bởi một vòng thành trang bị không ít súng đại bác và được che chở bên ngoài bởi những công trình có giá trị chiến lược nào đó.

Có 2 con đường dẫn tới Biên Hoà, đường sông và đường bộ. Làm chủ được hai con đường này là điều quan trọng, người An-nam đã biết rằng những cố gắng của ta là chú trọng vào điểm này, nên đã xây dựng ở ngõ vào sông nối liền Biên Hòa và Sài Gòn, một rào chắn vững chắc, các pháo hạm vượt qua vùng này; sau rào cản này người ta còn thấy nhiều rào cản khác không vững chắc như thế, nhưng chúng đã gây trở ngại nghiêm trọng, tất cả các thành lũy này đều được bảo vệ bởi những đồn đóng hai bên bờ sông [1].

Ý đồ của Đô đốc, khi ông điều khiển cuộc tấn công, là dập tắt cho được hỏa lực của các đồn đầu tiên, là xâm nhập phá hàng rào đầu tiên và dọn sạch khúc sông ở đoạn này để cho phép các tàu chiến vượt qua. Ông đã đi xa hơn điều ông muốn. Các pháo hạm hạng 1 Alarme, Avalanche, Fusée, Mitraille, và các pháo hạm nhỏ số 16, 19, 31, thả neo đậu ở khoảng 10 sải cáp, cách đập rào cản người ta khởi sự khai hỏa, người An-nam đã đánh trả rất hăng và nhiều quả đạn của họ điều khiển rất chính xác đã rớt lên tàu chiến của chúng ta; ít ra nữa, vì khoảng cách gần, họ đã gây tổn thất cho chúng ta, trong khi giàn trọng pháo của ta mạnh hơn, cũng đã có lúc bị thiệt hại lớn. Pháo hạm Alarme, chiến thuyền đậu gần bãi trọng pháo của địch đã có một người bị giết, trưởng buồng lái và một thủy thủ bị thương nặng, buồm chão và vỏ tàu bị tổn thất nhẹ. Sau hai giờ bắn nhau, hỏa lực của địch đột ngột ngưng lại. Quân An-nam đã thấy một cánh quân khoảng 500 người, do Đại tá hải quân Le Bris chỉ huy, Đại tá đi sau toán quân này và dẫn họ đi vào giữa hỏa lực của tàu chúng tôi với hỏa lực của các đại đội đã đổ bộ của chúng ta; họ không thể chống cự với chiến thuật như vậy, bị vượt qua là điều dễ nhận thấy, họ bị động trước chiến thuật này để thả lỏng các đồn ở ngõ vào nhánh sông Biên Hòa, từ ngày 16 đến ngày 21, chúng ta đã phá hủy rào cản, và như vậy đã đạt được mục đích đặt ra. Ít ra nữa, ta đã vào rất xa để biết được quân An-nam đã rút về đâu, nhưng không hề gặp họ; tiến đến tận dưới chân thành Biên Hòa và chỉ thấy những cột khói dày bốc lên từ trung tâm thành phố; tiến thêm nữa, nhưng không gặp được ai cả; thành bị bỏ ngõ; những tòa nhà chính đều bị đốt. Trong thành người ta tìm thấy xác của gần 300 người Thiên Chúa giáo An-nam bị đốt cháy hoặc bị nhiều vết thương rùng rợn. Đây là hành động cuối cùng của những kẻ tôn sùng thần tượng và sự man rợ của một dân tộc lánh xa đức tin Thiên Chúa giáo và văn minh châu Âu. Nhiều nạn nhân còn thở được, họ tin tưởng vào sự săn sóc của các y sĩ giải phẫu của chúng ta và được trở về Sài Gòn hoặc được đối xử như người anh em ruột của chúng ta[2].

Trong thành người ta tìm được 30 khẩu đại bác trong đó có 18 khẩu bằng đồng. Quân lính ta đã làm chủ cứ điểm quan trọng này, tỏa ra đánh toàn xứ, khắp mọi hướng để tìm quân An-nam, nhưng họ đã rút vào trong núi, và từ đây, thật dễ dàng cho chúng ta xây dựng toàn đường ranh giới được phòng thủ một cách chắc chắn và dễ dàng.

Trong khi những biến cố ấy đang xảy ra ở Biên Hòa, thì có vài ba toán du kích phân tán vào trong các nơi ta đã chiếm cứ tìm cách làm yếu ta bằng cách tấn công các đồn bót lẻ mà chỉ có một ít quân canh phòng yếu trấn giữ. Trong một con rạch, quân An-nam đã đốt một "lorcha" (một pháo thuyền có trang bị hai đại bác), giết chết 13 người của ta; ở Candjioe (Cần Giờ, Dịch giả chú), họ đã tấn công một đồn làm trung úy hải quân Dumont bị thương vì một cú lao đâm nhẹ; ở Tram- ban (Trảng Bom, Dịch giả chú), họ đốt một kho lương thực; nhưng khắp nơi họ đã nhận những mất mát đáng kể, và từ tám ngày nay không còn vấn đề quân du kích đó nữa.

Đó, bạn thân của tôi, điều mà tôi phải báo cho bạn biết và điều thể có, những điều tiếp theo tốt nhất ấy mà, đối với đích thân chúng tôi. Chiếc tàu lộng lẫy của chúng tôi đã có cơ may trở lại Pháp một ngày rất gần đây; vì chiếc tàu và những người trên tàu hiện nay trở thành vô dụng rồi; khắp nơi người ta nghĩ và nói rằng cuối cùng ông Đô đốc muốn vâng lệnh mà ông đã nhận để phái chúng tôi đi vào khoảng cuối tháng Giêng, chúng tôi sẽ đi Sài Gòn. Chúng tôi sẽ đến Chebourg vào những ngày cuối tháng Ba, và cuối cùng tôi có thể Cử hành Lễ trong đoàn của bạn vào tháng Năm, đúng sau thời gian vắng mặt hai năm!

Tôi phải báo cho bạn biết một điều, và vì đó mà tôi phải nhắc cho bạn nhớ bạn đã nói với tôi trong lá thư cuối của bạn đến tay tôi ở đây đã một tháng rưỡi. Điều bạn nói là: Germano đã lấy làm xấu hổ cách đối xử của anh ta đối với sự lưu tâm của tôi, và anh ta đã hứa với bạn là viết cho tôi 100 trang thư không hơn không kém; sáng ngày ra đi, bạn nhắc lại lời hứa đó cho anh ta biết, anh ta đã trả lời bạn rằng anh ta chỉ còn ngày thứ 25, nhưng chắc chắn do chuyến tàu mới đây, anh ta sẽ không có cách làm dịu cơn thịnh nộ đúng đắn của tôi, vậy mà chuyến tàu thư tiếp theo, rồi một chuyến nữa cũng đã cập bến Sài Gòn mà chúng không mang cho tôi ít nhất một chữ nào của Germano, theo cách anh đã làm là đã không viết thư cho tôi từ 25-6 vừa qua, tôi không lưu ý đến điều đó nữa, trong lúc nổi điên, tôi đã viết cho Germano một cái thư, thư này - tôi nghĩ thế sẽ chỉ cho anh ta biết tôi đã phật lòng vì cách xử sự của anh ta. Thư của tôi đối với bạn, nếu anh ta cho bạn xem lá thư này, hơi khô khan và có hơi sáng sủa, nhưng tôi vẫn không hối tiếc và vẫn gửi đi vào sáng mai đồng thời với thư này.

Bạn hãy viết cho tôi, bạn thân mến ạ, mặc dầu theo tất cả mọi khả năng, hồi âm của bạn cho thư này sẽ không đến tay tôi ở Sài Gòn. Như bạn biết rồi đấy, chỉ cần một phản lệnh mới là tôi không nhận được những lá thư như trước cho nên tôi sẽ gửi thư theo chuyến tàu cuối cùng đi cuối tháng Giêng và đầu tháng Hai. Khi nào chúng tôi lên đường một cách chắc chắn thì sẽ viết cho bạn ngay để ngưng thư của bạn và đừng vội gửi cho tôi như trước.

Tình trạng sức khỏe của tôi vẫn tuyệt vời và viễn tượng về một cuộc trở về nhà, nhanh chóng làm cho năng lực của tôi tăng lên một cách đáng kể.

Chào tạm biệt, bạn thân của tôi, hẹn ngày mai sẽ gặp lại; vì tôi bạn hãy hôn tất cả các bạn bè tốt của chúng ta như: Drujon, Chabrier, Goulin, Evariste, Roux và kể cả Germano, mặc dầu có sự phản bội của anh ta. Mong rằng Hội Cử hành Lễ sửa soạn khánh thành một cách xứng đáng pho tượng người Nam Kỳ mà tôi dành cho nó và nó sẽ là biểu tượng cho niềm tin hoàn toàn của người hành lễ đầy nhiệt tình. Pho tượng này sẽ được đặt một mình trên bàn vào ngày khánh thành và tất cả mọi người đi qua dưới tượng người Nam Kỳ đặt cao ở trên đầu.

Bạn hãy nói với Charles tôi viết dài cho thân phụ tôi để gửi theo chuyến tàu thư này, và bằng cách đọc thư ấy và thư này, sẽ biết được về tình hình của tôi.

Chúng ta hãy Cử hành Lễ! Cử hành Lễ! Cử hành Lễ!

Bạn cũ của bạn,

PH.AUDE

Hãy gửi cho báo Mémorial, nếu bạn muốn làm thế, những thông tin mà tôi gửi cho bạn nói về cuộc viễn chinh.

Trích : Những người bạn Cố Đô Huế B.A.V.H  tập XIX năm 1932- Hà Xuân Liêm Dịch, Nhị Xuyên hiệu đính. NXB Thuận Hoá 2006.

GHI CHÚ:

[1]Người An-nam hiểu rõ hơn về điểm chiến lược này, nó bảo đảm con đường đi Huế, nên đã tập trung tất cả các phương tiện phòng thủ có thể gây khiếp đảm thật sự cho những đạo quân thiện chiến; một doanh trại bảo vệ cho nơi này gồm 3.000 người đã được xây chính giữa đường Sài Gòn Biên Hòa [đồn Mỹ Hoà], trên đường bộ; về đường sông được phòng thủ bởi những bộ cọc nhà sàn trên sông, chín đập rào cản và một đập bằng đá mà hiện người ta đang còn thấy (1932), khi nước triều thấp, những di tích còn lại trước Biên Hòa tích khoảng nửa dặm; các đồn lũy đóng hai bên bờ sông làm trọn vẹn hệ thống phòng thủ. Những người Thiên Chúa giáo bất hạnh đã bị cầm tù trong thành này hơn bốn trăm người đã bị cưỡng bức và làm việc xây thành lũy cao lên để chống lại những người giải thoát họ.

(L.F.Lowet: Xứ Nam Kỳ về mặt tôn giáo 11, tr.301, 302).

[2]  Bị cầm tù ở trong Thành Biên Hoà có gần 600 người thiên chúa giáo, một số bị bắt từ trước ở Sài Gòn, và bị giải về đây trước khi người Pháp chiếm Sài Gòn ngày 18-02-1859; một số khác bị bắt trong các làng Thiên Chúa giáo ở tỉnh Biên Hòa. Nhiều người trong số những người bất hạnh ấy đã bị chặt đầu trên một ngọn đồi nhỏ gọi là Đất Sỏi, cách đồn lũy khoảng 5 phút đi đường. Khi người Pháp đến, chiều ngày 15-12-1861; nhà chức trách của tỉnh trước khi bỏ trốn, đã cho đốt tất cả các trại giam tù.

Những người lính được trang bị vũ khí cây lao, đã ném vào những lửa đang cháy rực những người cản đường họ. Chỉ có năm người Thiên Chúa giáo, trong bốn trăm lẻ bảy người, qua được chết chóc. Trong số người bị thương mà Ph.Aude nói, có một cô gái đã trèo lên cây, cao hết sợi xích. Cô ấy bị cháy hai đùi chân, được mang về bệnh viện Sainte Enfance ở Sài Gòn. Cô ta đã bị cắt cụt cả hai chân và cũng chỉ sống sau cuộc giải phẫu ít ngày. Cũng có một người đàn bà mà cái đầu một phần đã bị cắt lìa khỏi thân bởi một nhát lao và chỉ nằm chờ chết. Bà ta lại có thể thể sống và đã còn sống được mấy năm dài.

(L.F.Lowet: Xứ Nam Kỳ về mặt tôn giáo 11, tr.290, 291,292)

Giáo dân bị thích chữ Tả đạo vào mặt (nguồn internet)

Nghĩa trang xứ Biên Hoà nơi cải táng mộ hợp táng giáo dân bị đố cháy ngày 16/12/1861
 

Mộ hợp táng giáo dân bị đố cháy ngày 16/12/1861
  • Lê Ngọc Quốc- Biên Hoà

    Phone: 0903906956