Thứ Năm, 28 tháng 6, 2018

NAM TIẾN- THƯỢNG ĐẲNG THẦN NGUYỄN HỮU CẢNH

1-Thượng Đẳng Thần ở Cù Lao Phố

Tại cù lao Phố (Biên Hòa) hiện có đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, trong tác phẩm Gia Định Thành Thông Chí viết vào đầu thế kỷ 19, Trịnh Hoài Đức kể:

“Đền ở phía Nam Cù lao Đại Phố, phụng thờ quan Khâm sai Thống suất chưởng cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn Phúc Lễ, miếu vũ trang nghiêm, mặt trông ra Phước Giang, lấy tảng đá lớn làm thủy thành, dưới đấy có con cá chép to, đớp gió đùa sóng, bơi lượn khi ẩn khi hiện, lúc gió mưa nước vỗ vào tảng đá nghe ầm ầm, sóng cuộn ào ạt, càng thêm vẻ oai linh, làm cho người nghe phải kính sợ. Từ khi Tây Sơn nổi lên, hương tàn khói lạnh, có người thuộc giới sĩ lâm trong trấn (Trấn Biên) tên là Tấn qua đấy cảm xúc mà đề bài thơ như sau:
Ải cũ bụi bay cỏ bạc màu 
Thành hoang hoa tạp trổ xen nhau 
Trời đem sự nghiệp trao đời trước, 
Đất lấp sơn hà gởi lớp sau. 
Mưa gió chưa tàn xương chiến sĩ, 
Cháu con lại vướng nạn binh đao. 
Bình sinh giọt lệ tầm thường ấy, 
Chẳng khóc trung cang, khóc công thần! 


Sau vài trăm năm tạo lập, vài lần phải di dời đến vị trí hiện nay , đình Bình Kính thờ Nguyễn Hữu Cảnh ở Cù Lao Phố, đã được xếp hạng cấp quốc gia theo quyết định số 457 – QĐ của Bộ Văn hóa Thông tin, Thể thao và Du lịch ngày 25 tháng 3 năm 1991.


Xem trong 4 sắc phong lưu trữ tại đình; sắc năm 1822, ta thấy miếu Bình Kính lúc ấy tọa lạc tại thôn Bình Kính Đông, huyện Bình An. Các sắc năm 1843, 1850 ta thấy thôn ấy đổi thành thôn Bình Hoành, huyện Phước Chánh....
2- Lần theo dấu xưa
...Sau khi bình định Cao Miên Ông kéo quân về cù lao Cây Sao (cù lao này xưa có nhiều cây sao, tức nay là cù lao Ông Chưởng) làm tờ báo tiệp và chờ lệnh.
Đêm 26 tháng ấy bỗng có gió mưa tầm tã, đất đầu cù lao bị sụt lở, tiếng vang như sấm lớn. Đêm ấy Lễ công nằm mộng thấy một người cao lớn mặc áo gấm, tay cầm cái búa Việt màu vàng, mặt đỏ như son, mày râu bạc trắng, đến trước ông bảo rằng: Tướng quân hãy kéo quân về sớm, không nên ở lâu nơi ác địa nầy. Công thức dậy, cảm thấy dã dượi nhưng vì việc ngoài biên chưa xong, bọn yêu nghiệt còn ẩn núp chốn núi rừng. Công đang trù trừ chưa quyết định thì ba quân bỗng bị phát bệnh dịch mà chính Công cũng bị nhiễm nhẹ, dần dần hai chân mất hẳn cảm giác, không ăn uống được. Gặp ngày Đoan ngọ (ngày 5 tháng 5), Công miễn cưỡng ra dự tiệc để khen lao tướng sĩ, rồi bị trúng gió mà thổ huyết, bệnh tình càng trầm trọng. Ngày 14, Công kéo binh về, ngày 16 đến Sầm Giang (Rạch Gầm) thì than ôi! Công từ trần. Quan quân chở quan tài về dinh Trấn Biên tạm quàn ở đấy, tâu trình sự việc lên vua [sic]
*Trích: Gia Đình Thành Thông Chí, bản dịch và chú giải của Thầy Lý Việt Dũng- Tiến sĩ Huỳnh Văn Tới hiệu đính và chú giải; Nxb Đồng Nai năm trang 244-245).
Vàm Ông Chưởng- bản đồ Long Xuyên năm 1920

*Theo bản dịch của Viện Sử Học, dịch giả Đỗ Mộng Khương- Nguyễn Ngọc Tỉnh được Thầy Đào Duy Anh hiệu đính và chú thích.Nxb Giáo Dục năm 1998 trang 200 thì đoạn về đến Trấn Biên:
…Tướng sĩ chở quan tài ông về dinh Trấn Biên tạm chôn, rồi đem việc tâu lên.[sic]
1/ miếu thờ Đức ông tại làng Bình Hoành
2/ Đền thờ Đức ông ngày nay
3/ Mộ Đức Ông tại gò Y- Phụng

*Theo Biên Hòa Sử lược toàn biên-Quyển thứ II của cụ Lương Văn Lưu. Tác giả xuất bản năm 1973, sự kiện trên được chép ở trang 128-129:
…Phó tướng báo tinh về phủ Chúa tại Chánh-dinh, rồi lo việc tẩn liệm và lo việc chuyển cửu vế dinh Trấn-biên.
Trên đường di chuyển, quan quân lại cho đình-cửu rồi quyền táng tại thôn Bình-hoành (Châu Đại-phố) chỗ ba năm về trước Cụ tạm đặt tổng hành dinh khi đến khai khẩn đất Đồng-Nai. [sic]
Bấy lâu có tranh luận là linh cữu Đức Ông được chôn ở Cù Lao Phố hay chỉ dừng lại, sau đó chuyển về an táng ở quê hương?
 Mộ Đức Ông tại gò Y- Phụng
*Nghiên cứu của tác giả Vĩnh Quý- báo Gia đình và Xã hội Xuân Canh Dần
http://giadinh.net.vn/xa-hoi/chuyen-chua-ke-ve-hanh-trinh-tim-mo-to-20100201012159376.htm:

-Theo sử sách và gia phả của dòng họ Nguyễn Hữu tại thôn Đại Phúc, xã Vạn Ninh (Quảng Ninh - Quảng Bình), thì linh cữu Ông được đưa về an táng tại Hiệp Hoà (Biên Hoà - Đồng Nai).
Năm 1802 (?), di cốt Ông được cải táng và đưa về an táng tại Phước Long, Chương Tín, Phong Lộc, Quảng Bình. Đến năm 1945, chiến tranh, loạn lạc đã xoá đi dấu tích phần mộ ông.
Mộ Đức Ông ở cố thổ (nguồn internet)

Bài báo đăng ngày 14 Tháng 2, 2010 | 10:15 AM không ghi chép danh tánh ai là người đã cải táng mộ Đức Ông vào năm 1802(?). Trong bài có chi tiết về đội Hộ từ phu đền Vĩnh An, được hưởng lương bổng của triều đình trước đây để coi sóc cho phần mộ Ngài. Khoảng năm 1936 (?), Hội từ phu đã đón bia mộ Nguyễn Hữu Cảnh và thân phụ của Ônng là Nguyễn Hữu Dật về dựng trước phần mộ hai Ngài. Sau khi đón bia, đội Hộ từ phu xuống thuyền chèo dọc sông lên vùng thác Ro (xã Trường Thuỷ ngày nay) và dựng bia Lễ Thành Hầu ở đó. Tấm bia kia đặt ở núi An Mã, nơi có phần mộ của Nguyễn Hữu Dật. Trên mộ Đức Ông được rải đá cuội, xung quanh có những hòn đá bạc, mộ đắp bằng đất... Đến năm 1995 thì dòng tộc đã tìm lại được mộ Đức Ông, hiện nay lăng mộ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh đã được xây dựng lại rất bề thế tại xã Trường Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Nhưng thông tin về Bia và người lập Bia không có ghi chép.
Bia Vĩnh An Hầu do quan Nguyễn Hữu Bài lập năm 1930 (nguồn internet)

*Năm 2015 tác giả Thanh Thúy có 3 bài nghiên cứu đăng trên báo Đồng Nai :

1/ http://www.baodongnai.com.vn/vanhoa/201508/nguyen-huu-canh-nguoi-mo-coi-phuong-nam-nguoi-co-3-le-gio-bai-1-2620157/

2/ http://www.baodongnai.com.vn/vanhoa/201508/nguyen-huu-canh-nguoi-mo-coi-phuong-nam-bi-an-ngoi-mo-go-y-lang-bai-cuoi-2621020/

3/ http://baodongnai.com.vn/vanhoa/201509/cau-chuyen-tim-mo-le-thanh-hau-nguyen-huu-canh-2626197/

Trong loạt bài này có thông tin:

Trên bia chạm khắc dòng chữ “Vĩnh An hầu (một tước phong khác của ông) Nguyễn Hữu Cảnh chi mộ” qua bao mưa nắng thời gian vẫn còn rất sắc sảo. Dòng bên phải bia ghi “Nguyễn triều sơ thác Nam tung khai quốc công thần thượng cấp” (Người mở mang phía Nam, Thượng đẳng khai quốc công thần của triều Nguyễn). Dòng bên trái ghi “Gia Long sơ niên, Quý hương nhân kỳ huyền tôn thi Hưng Nghĩa đạo Cai đội Ngũ Đức hầu Nguyễn Hữu Quỳnh” (Năm Gia Long thứ nhất, người cháu ở quý hương, Cai đội đạo Hưng Nghĩa, Ngũ Đức hầu Nguyễn Hữu Quỳnh lập bia mộ). Mặt sau bia ghi “Bảo Đại ngũ niên thất nguyệt thập lục nhật. Hậu duệ Cơ mật viện Viện trưởng đại thần Thái tử Thái phó Võ hiển đại học sĩ Phước Môn bá Nguyễn Hữu Bài, huệ tử Hữu Giải, nữ thị Dương, cung xướng thụ bia cẩn chỉ” (Ngày 16-7 năm Bảo Đại thứ 5, hậu duệ là Viện trưởng Viện Cơ mật đại thần, Thái tử Thái phó đại học sĩ Phước Môn bá Nguyễn Hữu Bài cùng con là Hữu Giải và Thị Dương cung kính ghi lại, dựng bia).[sic]

*Theo các tài liệu trên người cải táng mộ Đức Ông từ cù lao Phố về cố thổ thời vua Gia Long mới lên ngôi, là cháu xa của Ngài, tên Nguyễn Hữu Quỳnh; và người dựng bia vào thời vua Bảo Đại là quan Nguyễn Hữu Bài.

* Cai đội đạo Hưng Nghĩa, Ngũ Đức hầu Nguyễn Hữu Quỳnh
Theo thông tin trên trang công giáo:
Thánh tử đạo An Tôn Quỳnh Năm (nguồn internet)
http://conggiao.info/thanh-anton-nguyen-huu-quynh-nam-trum-ho-1768-1840-d-9080

Nguyễn Hữu Quỳnh sinh năm 1768 tại làng Mỹ Hương, huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình. Cha là Antôn Nguyễn Hữu Hiệp, mẹ là Mađalêna Lộc. Theo gia phả ông Quỳnh là con cháu đời 15 của đệ nhất Công Thần Nguyễn Trãi (1380-1442). Vì là con thứ năm, nên thường được gọi là Năm Quỳnh.
Thời niên thiếu, cậu xin làm đệ tử Đức Cha Labartette Bình có ý học làm linh mục, nhưng vì hai người anh trai cũng xin đi tu nên gia đình gọi cậu về để nối dõi tông đường. Năm 1800, theo việc cắt cử của làng xã, anh gia nhập đội quân của Nguyễn Ánh, góp phần chiến thắng quân Cảnh Thịnh và được thăng chức Vệ Uý. Đến khi đất nước đã thống nhất (1802), Gia Long lên ngôi, ông thấy đời quân ngũ không thích hợp, liền xin giải ngũ.

Về nhà ông làm nghề thuốc và thầy giảng; trong cơn bách đạo công giáo của vua Minh Mạng, ông bị bắt năm 1838 vì thuộc Hội Thừa Sai Balê. Trong hai năm tù ông chăm lo cho các tù nhân và chịu đựng nhiều cuộc tra tấn. Bị xử giảo (thắt cổ) chết. Đức Lêo XIII suy tôn Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh lên bậc chân phước ngày 27/05/1900; ngày 19/06/1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

http://tinmung.net/CACTHANH/118ThanhTDVN/_TieuSu/Quynh_AntonNguyenHuu.htm

Chúng tôi đọc trong t
ư liệu châu bản triều Nguyễn; vào thời kỳ đầu niên hiệu Gia Long (Gia Long sơ niên); ở nam kỳ có phong trào cải táng di dời hương cốt người thân về miền trung. Chúng tôi chưa tìm ra văn bản triều đình cấp Công đồng phó (sự vụ lệnh) cho Vệ úy Nguyễn Hữu Quỳnh vào nam cải táng hài cốt Ngài…nhưng chắc chắn ông Năm đi vào dịp này (theo bia do cụ Bài lập ở thác Ro), lúc bấy giờ (Gia Long sơ niên) Cù Lao Phố vừa bị chiến tranh tàn phá (theo cụ Trịnh Hoài Đức), hoang vắng…nên việc cụ Quỳnh đến, ít người được biết.

* Cơ mật viện Viện trưởng đại thần Thái tử Thái phó Võ hiển đại học sĩ Phước Môn bá Nguyễn Hữu Bài
Quan Nguyễn Hữu Bài (nguồn internet)
Nguyễn Hữu Bài(阮有排), sinh 28/9/1863 mất ngày 10/7/1935 là một quan đại thần nhà Nguyễn.
Theo thông tin của Giáo xứ Phước Môn xã Hải lệ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị
http://www.giaoxugiaohovietnam.com/Hue/01-Giao-Phan-Hue-PhuocMon.htm

Thì quan Nguyễn Hữu Bài là hậu duệ của Thánh Tử đạo AnTôn Nguyễn Hữu Quỳnh .
*Như vậy ngày 16 tháng 5 (ÂL) năm 1700, Đức Ông mất ở Sầm Giang (Rạch Gầm), linh cữu được đưa về Doanh Trấn Biên, sau mai táng tại gò Y Phụng cù lao Phố, nhân dân lập miễu thờ nơi Ngài đã từng lập đại bản doanh.

Đến những năm đầu thời vua Gia Long, cai đội đạo Hưng Nghĩa, Ngũ Đức hầu Nguyễn Hữu Quỳnh (thánh tử đạo An Tôn Quỳnh Năm) vào bốc mộ, đưa về an táng tại cố hương, sau đó năm 1930, quan Nguyễn Hữu Bài (hậu duệ Đức Ông) cho tạc bia đá dựng tại mộ mà cố ông là Nguyễn Hữu Quỳnh đã cải táng năm xưa!
Bia Vĩnh An Hầu (Nguồn Kiến Thức)


Trích bản thảo: Nam Tiến- Thượng Đẳng Thần Nguyễn Hữu Cảnh (Nguyên-Phong Lê Ngọc Quốc)






Thứ Ba, 12 tháng 6, 2018

CỬU LONG GIANG- NAM BỘ (P1)

Thương nhân ky tô hữu Nhật bản ở Đông nam á tk 17 (nguồn internet)

TRƯỚC KHI CÓ TÊN TIỀN GIANG, CON SÔNG NÀY ĐƯỢC CÁC NHÀ HÀNG HẢI GỌI TÊN: SÔNG NHỰT BỔN
Sông Nhựt Bổn (1) trong bản đồ xb tại Hà Lan năm 1662 (nguồn internet)

I-                  ĐỊA DANH NHẬT BẢN (NHỰT BỔN-日本) TRONG THƯ TỊCH XƯA.
1-Tài liệu trong nước
Trong tác phẩm Gia Định Thành Thông Chí (chép vào khoảng đầu thế kỷ 19) củaTrịnh Hoài Đức; mục Sơn Xuyên Chí- Trấn Định Tường, kể về các giồng đất ở địa phương này ta thấy có nhắc địa danh Nhật Bản:
“Giồng Nhật Bản, giồng Tổng Đỗ, giồng Dung (Dong).

- Ở cồn Nhật Bản trồng bông vải, khoai lang, khoai nước. Nhà cửa ẩn hiện trong bóng tre trúc cổ thụ um tùm”.
[1]
Mục Đại Hải Môn (cửa Đại):
“...phía tây cảng có cồn Nhật Bản, trên cồn có trạm đồn trú, trước mặt cồn nỗi cát ngầm, tục gọi là cồn Tàu..."[2]
Về địa danh "giồng Nhật Bản" trong Gia Định Thành Thông Chí, quan Trịnh Hoài Đức không có chú giải gì thêm, xem trong các tài liệu chính thống của triều Nguyễn về vùng đất này thì cũng không hề thấy cắt nghĩa về nguồn gốc của địa danh đó!
Tham khảo các thư tịch cổ của Việt Nam, chúng tôi thấy kể tàu buôn Nhật Bản có đến hoạt động tại nam bộ vào thời kỳ này (thế kỷ 17):
" Bọn Ngạn Địch đến cửa khuyết tạ ơn để đi. Binh thuyền của Ngạn Địch và Hoàng Tiến vào cửa Lôi Lạp, đến đóng ở Mỹ Tho. Họ vỡ đất hoang, dựng phố xá, thuyền buôn của người Thanh và các nước Tây Dương, Nhật Bản, Chà Và đi lại tấp nập, do đó mà phong hóa Hán thấm dần vào đất Đông Phố”.
[3]
Trong Đại nam Nhất Thống Chí cũng thấy ghi chép:
"Giồng Nhật Bản: ở cách huyện Kiến hòa 65 dặm về phía đông.
Tấn cửa Đại: ở cách huyện Kiến hòa 58 dặm về phía đông, cửa tấn rộng chừng 7 dặm, thủy triều lên sâu 27 thước, thủy triều xuống sâu 22 thước, bùn sâu lầy lội, lòng rạch nhỏ hẹp quanh co, ít khi có thuyền bè ra vào. Bãi Nhật Bản ở phía tây lạch, trên bãi có lập bảo bằng đất, gọi là đồn Thừa Đức, chu vi 86 trượng, cao 5 thước, mở 2 cửa. Năm Minh Mệnh thứ 15 đắp, năm Tự Đức thứ 1 sửa lại." [4]

Trong địa bạ Minh Mạng năm 1836, tỉnh Định Tường, huyện Kiến Hòa, tổng Hòa Thanh ghi 2 thôn:
1/ Thôn Minh Đức ở xứ Nhựt Bổn.
- Đông giáp bờ biển.
- Tây giáp địa phận thôn Thọ Phú.
- Nam giáp địa phận thôn Thới Thuận.
- Bắc giáp bờ biển.
- Dân cư thổ 1.0.0.0
- Đồn  Minh Đức và thủ sở Đại Hải Khẩu 1.0.0.0
- Đất đền thờ thần 1.2.0.0
- Rừng chằm 4 khoảnh.

2/ Thôn Thọ Phú ở xứ Nhựt Bổn.
- Đông giáp địa phận thôn Minh Đức.
- Tây giáp bờ biển.
- Nam giáp địa phận thôn Thới Thuận.
- Bắc giáp bờ biển.
- Dân cư thổ 3.1.0.0
- Rừng chằm 4 khoảnh” [sic].[5]

Trong sách Nam Kỳ lục tỉnh của Duy Minh Thị soạn năm 1872, mục tỉnh Định Tường chép:
 “Cửa Đại cách hướng nam tỉnh lỵ 87 dặm, bề ngang 1.487 trượng nước lớn lên 1 trượng 9 thước, nước ròng xuống 1 trượng 1 thước. Lòng cảng cạn hẹp, hướng tây là cù lao Nhựt Bổn, trên cù lao có đồn thủ ngự đóng, trước có cồn cát nổi tục danh là cồn Tàu. Hướng đông cù lao lớn gọi là cù lao biển nhỏ (Tiểu Hải Châu)”[sic].[6]

Có lẽ thư tịch nước ta chép về địa danh này sớm nhất là vào năm 1806:
“Từ cửa sông lớn Mỹ Tho đi xuống hạ lưu...dọc sông đều có ruộng vườn, đến ngã ba sông, tục gọi là ngã ba cửa Đại, nhánh hướng nam đi 13.020 tầm đến cửa Đại, cửa rộng 1.604 tầm, nước sâu 5 tầm 1 thước, đằng trước có hòn đảo, tục gọi là cù lao Nhật Bản, trên đó có dân cư ước chừng 100 nhà, ở đó có đồn phân thủ để canh chừng giặc biển”[sic].
[7]
2-Tài liệu nước ngoài
Trong một số bản đồ cổ thế kỷ 17, họa vùng hạ lưu sông Mecon (Mê Kông) chúng tôi thấy các tác giả chú thích một địa danh: R.Japanse, R. Japonoise, Japanese River và R.Iapante... so sánh với bản đồ hiện tại, đó chính là sông Tiền.[8]
Vào nữa cuối thế kỷ 19, Léopold Augustin Charles Pallu de la Barrière, một sĩ quan trong đạo quân viễn chinh đánh chiếm thành Gia Định năm 1859, trong quyển hồi ký của ông có mô tả khu vực này: 
  “Các nhà viết sử người Hòa Lan chép rằng sông Mê Kông đổ ra biển bằng 3 cửa: cửa Umbequamme, danh xưng này theo tiếng Pháp có nghĩa là “bất tiện” Incommode, cửa Nhật Bản  và cửa Saĩgon. Chiến tranh Nam Kỳ giúp thêm cho việc nghiên cứu địa lý thủy học của sông Mê Kông; hiện nay người ta biết rằng sông Mê Kông có 7 nhánh chính. Umbéquamme là cửa đổ ra biển của một nhánh sông tách ra từ sông chánh gần Châu Đốc, sông Nhật Bản gồm hai nhánh bắc và nam …” [sic].
[9]

ĐỊA DANH CÓ HẬU TỐ NHẬT BẢN
1/Nhánh sông Mê Kông đổ ra cửa Tiểu và cửa Đại
Lần theo các tấm bản đồ châu âu và các thư tịch xưa, chúng tôi thấy có một tài liệu tên “Maritime geography and statistics …” của James Hingston Tuckey (1776-1816) là một nhà thám hiểm người Anh. Trong trước tác của ông tập 3, xuất bản năm 1815, chương Empire Cochin- China có nhắc đến con sông này:
“The second branch of the river is called the Japanese Branch from its having been formerly frequented by Japanese junks" [sic].[10]
Tạm dịch: Chi nhánh thứ hai của con sông được gọi là nhánh Nhật Bản vì nó đã từng được thuyền của nước Nhật lui tới.

Ghi chép trong “Đại Hòa Điền Trọng Thanh Nhật Ký” được Vũ Đoàn Liên Khê trích dẫn trong kỷ yếu hội thảo quốc tế Nhật Bản và các nước tiểu vùng sông Mekong- mối quan hệ lịch sử:

Đến thời Edo, thương nhân Karaya Morisukejiro đến Camphuchia đã cho neo thuyền rộng 37m, dài 500m ngay cửa sông trong suốt 60 ngày, thuyền của Karaya được cho là đã vào từ sông Mê kông để đến Phnom Penh.
Giữa cuối thế kỷ XVI là thời kỳ giao thương giữa Nhật Bản và Campuchia phát triển rực rở nhất. Năm 1569, thuyền Campuchia đã cập bến các cảng ven Kyushu, đến năm 1579, Shimazu và Ootomo đã thực hiện chuyến đi khứ hồi giữa Nhật Bản và Campuchia. Tháng 7 năm 1593, các sứ thuyền của Campuchia đã cập bến chính thức Hizen (Nagasaki). [sic][11]

 Như vậy, có một thời gian con sông Tiền ngày nay, đã được người châu âu định danh: sông Nhật Bản, vì từ cuối thế kỷ 16 trên sông có hoạt động thường xuyên lui tới của thương thuyền người Nhật.
Điều này cũng đã được nhà nghiên cứu Li Tana thống kê trong sách Xứ Đàng Trong- Lịch sử kinh tế- và xã hội Việt Nam thế kỷ 17- 18. Theo số liệu của bảng 1: Số thuyền châu ấn của Nhật tới các nước Đông Nam Á (1604- 1635):[12]
Năm

AnNam
Tong king
Thuận Hóa
Cajian
Cochinchina
Champa
Cambodia
Siam
Luzon
1604
4
3
1
1

1
5
4
4
1605
3
2



1
5

4
1606
2
1



1
3
4
3
1607
1




1
4
4
4
1608
1




1
1
1

1609

1


1

1
6
3
1610
1



3

1
3
2
1611
2



3


1
2
1612

1


3


2
1
1613

1


6

1
3
1
1614

1


7

2
3
4
1615




5

1
5
5
1616

1


4



1
1617

2


5


1
1
1618

3


7

2
1
3
1619

3


1



1
1620




5

1

2
1621

1


2

1

4
1622




1


2
2
1623

2


2
1
2
3
1
1624

2


2


1
2
1625

1




1
2

1626







1

1627




1

1
2

1628

2


2

2
3

1629




1

1
1

1630







1
2
1631

1


1

1
1

1632

2


3

4

2
1633

3


2

1
1

1634

3


2

2


1635




1

1


Total
14
36
1
1
70
5
44
56
53


Xem số liệu của Li Tana, chúng ta thấy những năm đầu thế kỷ 17 cụ thể là từ 1604 đến 1608, hoạt động của thương thuyền Nhật Bản đến Cambodia (theo tuyến hạ lưu sông Mê Kông) số lượng nhiều hơn các nước trong khu vực Đông nam á.
Thương nhân ky tô hữu Nhật bản ở Đông nam á tk 17 (nguồn internet)
Tổng cộng trong 31 năm (1604- 1635) số thuyền châu ấn Nhật đến Cambodia, được Li Tana thống kê là 44 chiếc, số lượng có thể nhiều hơn vì đó là số thuyền có phép của chính quyền Tokugawa, cũng có thể còn có nhiều thuyền không có phép, vẫn hoạt động mua bán trong thời gian này.
Chiến binh samurai (nguồn internet)



2/ Vùng đất hạ lưu sông Mê Kông (cửa Đại)
Sông Tiền vào thế kỷ 17 được người nước ngoài định danh là sông Nhật Bản, và được ghi chú trong nhiều bản đồ xuất bản ở châu âu từ thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 19; vì lúc bấy giờ thương thuyền của Nhật hoạt động dọc ngang trên hạ lưu sông Mê Kông; vậy các địa danh mà thư tịch xưa ghi chép: xứ, cồn, giồng… mang hậu tố “Nhật Bản” tại vùng đất hạ lưu sông Mê Kông, nằm bên hữu ngạn cửa Đại, ắt có liên quan đến người Nhật Bản hiện diện ở vùng đất này! (còn tiếp)
Trích: Xứ Nhựt Bổn ở Nam Bộ xưa! (Nguyên-Phong Lê Ngọc Quốc)



[1] Trịnh Hoài Đức- Lý Việt Dũng dịch và chú giải (2005), Gia Định thành thông chí, Nxb Tổng hợp Đồng Nai, trg 54.
[2] Trịnh Hoài Đức- Lý Việt Dũng dịch và chú giải (2005), Gia Định thành thông chí, Nxb Tổng hợp Đồng Nai, trg 57.

[3] Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục,  Nxb Giáo Dục, tập I, trg 91.
[4] Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam nhất thống chí, Nxb Thuận Hóa, tập 5, tỉnh Định Tường, trg 109-127.
[5] Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn, tỉnh Định Tường, Nxb Tổng Hợp Tp Hồ Chí Minh, trg 238- 242.


[6] Duy Minh Thị (1872), Thượng Tân Thị dịch theo bản Hán văn, Hồ Biểu Chánh tiểu dẫn (1944), Nam Kỳ lục tỉnh,  Đại Việt Tạp Chí ấn tống, trg 58-59.

[7] Lê Quang Định- Phan Đăng dịch và chú giải  và giới thiệu (2005), Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí, Nxb Thuận hóa- Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, trg 315~316.
[9] Léopold Augustin Charles Pallu de la Barrière- Dịch và bình Hoàng Phong (2008), Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861, Nxb Phương Đông,  trg 35~36.


[10] James Hingston (1815), Maritime geography and statistics …by Tuckey, Topics Ocean, Commercial geography, Commerce, Shipping Publisher London, Black, Parry & Co.sVol 3. p. 239
[11] Vũ Đoàn Liên Khê (2011), Kỷ yếu hội thảo quốc tế “Nhật Bản và các nước tiểu vùng sông Mekong- mối quan hệ lịch sử”.
Bài viết: Thương mại cảng Nagasaky và các nước tiểu vùng sông Mekong thế kỷ XVI-XVII-, công ty CP dịch vụ  xuất bản giáo dục Gia Định, trg 125.

[12] Li Tana- Nguyễn Nghị dịch (2013),  Xứ Đàng Trong- Lịch sử kinh tế- và xã hội Việt Nam thế kỷ 17- 18, Nxb Trẻ năm, trg 101- 102.