Thứ Ba, 24 tháng 1, 2017

BẢN ĐỒ ĐẠI NAM (01)

Xin được chia sẽ tư liệu quý của "nvh92" đăng trong quốc sử quán vOz, chân thành cảm ơn tác giả thật nhiều !
#2160
17-02-2016, 19:28


nvh92
Đã tốn tiền
Join Date: 05-2012
Posts: 2,705
Re: Quốc sử Quán vOz
3) Bản đồ của Đại Nam.
Nghành bản đồ học của Việt Nam có một diện mạo rất mới vào thế kỷ 19, trở nên đậm nét của cả Phương Tây và Trung Quốc hơn nữa. Sự đơn giản và tính chất phác thảo của bản đồ thời Lê Sơ đã bị thay thế bởi các nét ảnh hưởng quốc tế. Vị Hoàng đế lập ra nhà Nguyễn là Gia Long (1762 – 1820), mặc dù có quan hệ với Phương Tây nhất định nhưng ông về cơ bản là vị hoàng đế của Nho giáo, vì vậy ông vẫn cố gắng xây dựng và củng cố hệ tư tưởng Nho giáo tại Việt Nam dưới thời Nguyễn, thậm chí còn hơn cả dưới thời Lê Thánh Tông.
Ảnh hưởng của Phương Tây dưới thời Gia Long đến từ mối quan hệ giữa Hoàng đế Gia Long với người Pháp khi ông thông qua những ngời phương Tây làm trung gian để nhờ hỗ trợ về mặt vũ khí, huấn luyện quân đội… nhằm đánh bại nhà Tây Sơn. Sự ảnh hưởng của phương Tây này có thể nhìn thấy một cách rất đặc biệt trong các kiến trúc theo lối thành Vauban của Châu Âu trong các thành lũy, pháo đài bên cạnh đó vẫn giữ nét Á Đông.

Điển hình là Tử Cấm Thành của nhà Nguyễn tại Huế, cả khu vực nhìn từ trên cao xuống được thiết kế theo lối thành Vauban nhưng chi tiết kiến trúc, các nhà cửa, cung điện, cổng Ngọ Môn…vẫn tuân thủ chặt chẽ lối kiến trúc Á Đông, các thuật phong thủy.

Ngay khi vừa thành lập năm 1802, nhà Nguyễn sở hữu một lãnh thổ Việt Nam lớn và toàn vẹn nhất so với trước kia, vì vậy một nhiệm vụ cấp thiết đặt ra là phải tiến hành thu thập bản đồ trên phạm vi cả nước, cũng như từ các triều đại trước để tổng hợp lại tạo ra cơ sở cho việc quản lý quốc gia, mà lãnh thổ đã trải dài từ Trung Hoa tới sát Campuchia.

Các quan lại nhà Nguyễn phụ trách về bản đồ đã phải sưu tầm sau đó chỉnh sửa các bản đồ thời Lê, sau đó thêm vào các khu vực mới mà Đại Nam hiện có, chủ yếu nằm ở phía Nam.

Ngoài các ảnh hưởng từ quốc tế, thì có 2 yếu tố khác ta cần phải biết nếu muốn hiểu về sự phát triển nghành bản đồ học thời Nguyễn, đầu tiên là bối cảnh chính trị, thứ 2 là nguồn tư liệu.

Mặc dù, sau khi hoàng đế Gia Long lập nên nhà Nguyễn, đóng đô ở Huế, cương thổ của triều Nguyễn trải dài từ Bắc tới Nam nhưng sự kiểm soát của triều đình không đồng đều giữa các vùng. Triều đình Huế cố gắng kiểm soát chặt nhất khu vực miền Trung, Thừa Thiên – Huế, vốn là đất phát tích của nhà Nguyễn, còn 2 khu vực miền Bắc và Nam thì được giao quyền cai quản cho các quan tổng trấn, phía Bắc quyền tổng trấn Bắc Thành thời Gia Long được giao cho Nguyễn Văn Thành, tống trấn Gia Định là Lê Văn Duyệt, 2 vị tổng trấn này thay quyền hoàng đế cai trị phía Bắc và Nam, đứng giữa ngai vàng và dân chúng.

Thực tế cả Nguyễn Văn Thành và Lê Văn Duyệt đều xuất thân là võ tướng. Ở phía Bắc vốn là cố đô của nhà Lê, nơi có đông đảo tầng lớp Nho sĩ, trí thức, cựu thần… chính sách chủ đạo của nhà Nguyễn là vỗ về châm chước, lấy lòng. Phía Nam vốn là mảnh đất trù phú, dồi dào về sản vật, tài nguyên thì là được chú trọng khai thác về kinh tế. Chính sách cai trị như trên vào thời Gia Long tạo nên một hậu quả là tăng sự phát triển của tầng lớp quan liêu và giảm đi sự tích tụ tư liệu bản đồ.

Nghành bản đồ học thời Nguyễn không đi theo xu hướng thời Lê mà tiếp nhận phong cách bản đồ đã phát triển dưới thời Minh – Thanh. Phong cách bản đồ này ban đầu được sử dụng dưới thời Minh với bộ bản đồ “Đại Minh nhất thống chí” (大明一統志) vẽ năm 1461, thuật ngữ “Nhất thống chí” tiếp tục được sử dụng về sau này và xuất hiện cả ở Việt Nam vào thế kỷ 19. Kết cấu địa lý được tổ chức theo từng tỉnh, từng khu vực, trong mỗi phần được chia với một danh sách tiêu chuẩn các chủ đề. Tác phẩm đại lý đầu tiên theo motip trên xuất hiện ở Việt Nam là “Ô châu cận lục” (烏州近錄), đây là một tác phẩm địa lý không có bản đồ minh họa xuất hiện vào khoảng giữa thời Mạc.


Vào năm 1806, chắc chắn không lâu sau khi hoàn thành việc thu thập bộ “Hồng Đức bản đồ”, Lê Quang Định hoàn thành “Nhất thống dư địa chí” (Hoàng Việt nhất thống Dư địa chí - 皇越一統輿地志) dưới thời Hoàng đế Gia Long, tác phẩm này không có bản đồ vẽ kèm.

Trong số 10 chương, 4 chương đầu nói tới các tuyến đường đi về phía Bắc và Nam từ kinh đô Huế, tới biên giới, 6 chương còn lại gồm phần Thực lục ghi chép về đường bộ đường thủy ở các Dinh trấn, kể từ đường chính bắt đầu ở lỵ sở đi các nơi. Khi chép về Dinh trấn, có chép sơ lược về cương giới, phong tục, thổ sản, nét đặc trưng riêng của Dinh trấn đó.


“Thiên Tài nhàn đàm”, bản sao chép có chỉnh sửa vào năm 1810 dưới thời Nguyễn từ bản gốc là bản đồ thời Lê, thể hiện lãnh thổ phía Nam trong đó có Gia Định (Trên cùng là hướng Tây, dưới cùng là hướng Đông)

Ở miền Bắc, vẫn có các học giả bảo lưu truyền thống bản đồ học thời Lê. Năm 1810, Đàm Nghĩa Am đã biên soạn bộ “Thiên Tải nhàn đàm”( 天 載 閒 談), theo phong cách bản đồ thời Lê. Bản đồ vẽ hình toàn quốc, cho thấy cái nhìn của người phía Bắc về phần lãnh thổ được mở rộng ra ở phía Nam. Ngay bên cạnh Champa, Đàm Nghĩa Am đặt vùng Gia Định (Thành phố HCM ngày nay), và trong một bản đồ của vùng Tây Nam ông đặt vào đó khu vực Campuchia và Xiêm La. Trong quá trình đó, ông đã bỏ qua vùng bờ biển phía Nam nằm giữa Gia Định và thủ đô cũ của Champa.

Các bản đồ khác trong văn bản, tới từ Bình Nam đồ và bao gồm cả các vùng lãnh thổ bờ biển đã bị mất trên. Phong cách nghệ thuật của bản đồ cũng sinh động hơn khi vẽ hình hổ trên núi, cua trên bãi biển, cá dưới biển. Cố đô cũ của nhà Lê là thành Thăng Long không được gọi tên như thế nữa mà được gọi bằng cái tên mới là Hà Nội, và một số chi tiết mới được thêm vào bản đồ Hà Nội phản ánh sự thay đổi đương thời.

Một bản đồ trong “Giao Châu dư địa đồ”, thể hiện vùng An Quảng, thuộc Đông Bắc Việt Nam (Trên cùng là hướng Tây, dưới cùng là hướng Đông)

Tới khoảng năm 1830 lại xuất hiện một tập bản đồ khác, được gọi là Giao Châu dư địa đồ (交州輿地圖), với 3 phần bản đồ. Được vẽ bằng mực đen, bản đồ có phần vẽ nổi bằng mực xám minh họa mặt nước và bóng núi, màu đỏ cho các con đường. Các minh họa cho núi non đi từ phong cách đơn giản đến phong cách hiện thực hơn, nhiều cảnh quan và núi đá vôi. Điều thú vị là các hòn đảo thay vì được vẽ như các ngọn núi nhô ra trên mặt biển thì đã được vẽ giống đảo hơn với bờ cát bao quanh, có cả hình minh họa khỉ và voi trên núi. Điều này là kết quả của việc nhận thức địa hình tốt hơn và cách tiếp cận thực tế hơn của những nhà bản đồ học Việt Nam thời Nguyễn. Giao Châu dư địa đồ cũng tái tạo phần nào “Đại Man quốc đồ” trong một định dạng rõ ràng hơn trong khi vẫn đề ra một số chi tiết.

Vài năm sau công trình của Đàm Nghĩa Am, “Bắc Thành địa dư chí “ (Bắc Thành dư địa chí lục - 北城地輿誌錄) xuất hiện, như một cuộc khảo nghiệm các vùng thuộc phía Bắc thời Nguyễn, vẫn không có bản đồ đi kèm. Mỗi tỉnh tại khu vực miền Bắc được viết trong 1 chương sách, 11 tỉnh ứng với 11 chương sách.

Bản đồ Gia Định 1815 do Trần Văn Học vẽ. (Trên cùng là hướng Bắc, dưới cùng là hướng Nam).
Phía Nam, cũng có bản đồ riêng của mình, năm 1816, Trần Văn Học hoàn thành bản đồ Gia Định, cung cấp một cái nhìn trực quan và mạnh mẽ về ảnh hưởng của kiến trúc phương Tây lên cách thiết kế thành lũy. Bản thân Trần Văn Học cũng là võ tướng theo hoàng đế Gia Long lâu năm, từng cùng giám mục Bá Đa Lộc liên lạc với người Pháp để nhờ hỗ trợ.

Chính ông cũng là người đầu tiên tiến hành phác họa và xây dựng mẫu thành dạng Vauban, chính là thành Gia Định. Bản đồ cũng do chính ông vẽ vào năm 1815, và ở bản đồ này ta không còn thấy chút nào dấu vết của phong cách bản đồ thời Lê. Các con sông trong bản đồ cung cấp một cảm giác về đo lường chính xác hơn, và thành lũy thì hiện rõ nguồn gốc Vauban. Các đường giao thông, đường dần và tường thành đều có vẻ chính xác, cùng với nhà cửa, ao hồ chạy dọc theo chúng.

Không giống các bản đồ trước vẽ về phía Bắc, bản đồ này cung cấp rõ hơn cảm giác về cuộc sống thường nhật cũng như cuộc sống thương mại trong thành Gia Định hơn. Tuy vậy, tác giả vẽ bản đồ không vẽ các ngọn đồi hay có nất kỳ sự hiển thị về độ cao thấp nào.

Các ký hiệu trên bản đồ cung cấp khá rõ các đặc điểm tự nhiên, dân cư và xã hội, nhưng không như bản đồ thời Lê không có các minh họa chùa chiền, đền miếu, các chốn thiêng liêng và các công trình khác. Tất cả đều đúng trực giao, đúng về quy luật vật lý, không có các góc nhìn thẳng từ mặt trước giống bản đồ cổ.

Tới năm 1820, Học giả Trịnh Hoài Đức đã hoàn thành tác phẩm “Gia Định thành thông chí” (嘉定城通志), đây cũng là một tác phẩm đại dư không có bản đồ, nói về năm vùng thuộc lãnh thổ trấn Gia Định (Nam Bộ Việt Nam ngày nay). Trong khoảng 1 thập kỷ sau tiếp tục xuất hiện “Nam Kỳ hội đồ” (南圻會圖) với bản đồ của toàn quốc cũng như bản đồ cụ thể của 6 tỉnh Nam Kỳ. Bộ bản đồ này thì đã hoàn toàn theo phong cách Châu Âu.

Năm 1833, dưới thời Hoàng đế Minh Mạng bộ "Hoàng Việt dư địa chí" (皇越地輿志) được hoàn thành. Dù là bộ địa dư mang tính chất quốc gia nhưng nó cũng khá ngắn gọn, vẫn không có bản đồ, lãnh thổ cả nước chủ yếu được nói trong 2 chương, tập trung vào miền Bắc và miền Trung.

Phải tới cuối những năm 1830, nước Đại Nam mới có thể thu thập đầy đủ thông tin về các vùng trong toàn quốc.

Từ đó các bộ địa lý, bản đồ chất lượng hơn mới ra đời, đầu tiên là Đại Nam (Hoặc Nam Việt) bản đồ, nó đi theo hướng truyền thống kiểu “Hồng Đức bản đồ” nhưng vẫn có sự biến đổi nhất định. Nó bao gồm 4 bản đồ miền Bắc trích ra từ “Thiên Nam tứ chí lộ đồ”, bản đồ Cao Bằng, bản đồ các tuyến đường phía Nam trích ra từ “Bình Nam đồ”, bản đồ Thái Lan trích từ “Đại Man quốc đồ”.

Tuy nhiên một nét riêng của tập bản đồ này là Campuchia không còn được vẽ với tư cách là một quốc gia riêng lẻ nữa mà được vẽ với tư cách là Cao Miên phủ, vì lúc này Campuchia đã bị sát nhập vào lãnh thổ của nước Đại Nam, đồng thời Angkor cũng không còn được vẽ trong lãnh thổ Cao Miên phủ.

Cùng thời gian, triều đình nhà Nguyễn có một chút cởi mở nhất định với phương Tây đủ để tiếp thu khoa học công nghệ từ họ. Từ đó các nhà bản đồ học Việt Nam khác cũng mạnh dạn hơn trong việc sử dụng các kỹ thuật và phong cách phương Tây trong vẽ bản đồ quốc gia, lúc này đã có lãnh thổ tới tận vịnh Thái Lan bao gồm cả Lào và Campuchia, được các văn sĩ nhà Nguyễn gọi là “một đại quốc sừng sững giữa đất trời”.

Năm 1839 xuất hiện “Đại Nam toàn đồ” (Đại Nam nhất thống toàn đồ - 大南ー統全圖) bản đồ của toàn bộ 30 vùng lãnh thổ của đất nước Đại Nam bao gồm cả thuộc địa tại Lào, Campuchia và 82 cửa sông dọc theo bờ biển lãnh thổ của Đại Nam.

Bản đồ này đưa vào phong cách thực tế của bản đồ phương Tây, mô tả chính xác hơn hình dạng bờ biển và thủy văn phức tạp của sông ngoài, thậm chí là hệ thống sông Mekong. Các bản đồ địa phương cũng rất rõ ràng, vẫn tuân thủ nguyên tắc vẽ kiểu Châu Âu cộng với đặc điểm tự nhiên, các khu rừng cũng được thể hiện.

Bản đồ toàn bộ lãnh thổ nhà Nguyễn trong “Đại Nam nhất thống toàn đồ” hoàn thành năm 1839 dưới thời Minh Mạng, được vẽ theo phong cách ảnh hưởng mạnh từ Châu Âu.
Trong khoảng thời gian này xuất hiện thêm 2 tập bản đồ nữa đã sao chép từ tập nhật trình mà chúng tôi giới thiệu ở trên. Đầu tiên là “Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư dẫn”, đây là phiên bản đơn giản và truyền thống hơn của lãnh thổ quốc gia trong Đại Nam toàn đồ. Cả 3 bản đồ đều cho thấy khu vực Đông Dương, các cửa sông và đường bờ biển chạy tới tận Campuchia với cách phối cảnh như nhau. Hai bản đồ khác đơn giản hơn, tương tự như bản đồ năm 1839.

Bên cạnh đó trong phần bản thảo của “Thư dẫn” là một biểu đồ thiên văn, cho thấy mô hình của các ngôi sao. Không có các miêu tả để nhận dạng các ngôi sao và chòm sao, cũng không hề có tiêu đề hay ghi chép về bản đồ thiên văn này. Nó chỉ đơn giản có thêm trong phần bản thảo.

Các bản đồ thiên văn khác mà chúng tôi thấy được trong các tài liệu Việt Nam khác bao gồm 1 bản trong Thiên Hạ bản đồ (Tên gốc của Hồng Đức bản đồ). Tại đây các ngôi sao và chòm sao được đặt tên ứng với các con Giáp. Ngoài rat rung tâm của bản đổ thiên văn và định hướng của nó theo hướng được đơn giản hóa, không khoa học lắm vốn hay thấy trong bản đồ thiên văn Trung Hoa và Đông Á.

Mặc dù hoàng đế Thiệu Trị (1841 - 1847) cũng đã cho biên soạn " Đại Nam thông chí" (大南通志) nhưng phải tới thời hoàng đế sau đó là Tự Đức (1848 - 1884), người đã ra lệnh soạn ra tác phẩm địa lý lớn và hoàn chỉnh nhất của triều Nguyễn, nó cũng kết hợp được các văn bản về địa lý cùng với bản đồ.
Một bản đồ trong “Đại Nam nhất thống dư đồ”, miêu tả tỉnh Biên Hòa.
Năm 1861 theo lệnh Tự Đức bộ “Đại Nam nhất thống dư đồ” (大南一統輿圖) được hoàn thành. Tập bản đồ này có bản đồ của tất cả các vùng trong lãnh thổ nhà Nguyễn khi đó trải dài tới tận phía Nam ( thậm chí một vài vùng có nhiều bản đồ được vẽ). Cụ thể hơn “Đại Nam nhất thống dư đồ” 76 bản đồ gồm: Toàn quốc; các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Sơn Tây, Hưng Hoá, Tuyên Quang, Quảng Yên, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Hà Nội, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên, Qủang Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Bình Thuận, Biên Hoà, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên và một số phủ thuộc các tỉnh trên. Mỗi tỉnh đều có ghi về diên cách, số nhân khẩu ruộng đất, thuế nộp hàng năm.

Bản đồ toàn quốc trong “Đại Nam nhất thống dư đồ”, không quá khác biệt so với “Đại Nam nhất thống toàn đồ” thời Minh Mạng.

Một số ảnh hưởng của phương Tây trong bản đồ này thể hiện qua cách vẽ các đường ranh giới, các hệ thống sông và đường bờ biển. Đồng thời nó cũng mang tính chất quốc tế hơn, các quốc gia xung quanh được hiển thị nhiều hơn so với các bản đồ trước đó. Ví dụ hệ thống sông Mekong được hiểu tốt hơn.
Từ năm 1865 tới năm 1882 vẫn dưới thời vua Tự Đức, Bộ địa dư đồ sộ “Đại Nam nhất thống chí” (大南一統志) được biên soạn dựa trên bộ bản đồ “Đại Nam nhất thống dư đồ” chúng tôi đã giới thiệu ở trên.

Nếu như “Đại Nam nhất thống dư đồ” là bộ bản đồ lớn nhất của nhà Nguyễn thì “Đại Nam nhất thống chí” còn vượt xa hơn trở thành bộ sách địa dư – lịch sử lớn nhất trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam. Bộ sách chịu ảnh hưởng nhất định của bộ “Đại Thanh nhất thống chí” (大清一統志)soạn từ năm 1686 – 1842 từ thời Khang Hy tới Đạo Quang nhà Thanh.
Bản đồ cả nước trong quyển 1 của “Đại Nam nhất thống chí”.

Giống như trong “Đại Thanh nhất thống chí” thì “Đại Nam nhất thống chí” cũng thể hiện kinh đô Huế, phủ Thừa Thiên và 29 tỉnh còn lại trong cả nước. Các tỉnh được miêu tả với các chi tiết như: Đặc chung của tỉnh, các địa phương cấu thành tỉnh, đặc điểm tự nhiên - xã hội, dân cư - văn hóa - phong tục, thành lũy – làng xã, danh nhân lịch sử, các danh lam, thuế, sản vật đặc trưng.

Bản đồ kinh thành Huế trong quyển 1 của "Đại Nam nhất thống chí".

Các nhà địa lý học dưới thời Tự Đức là những người duy nhất bao quát được cả quốc gia trong thế kỷ 19. Dù cho sau này 6 tỉnh Nam Kỳ mất vào tay người Pháp năm 1867, sau đó là nền độc lập của quốc gia vào năm 1884.
Bản đồ kinh thành Huế trong quyển 1 của “Đại Nam nhất thống chí”.

Tuy vậy các hoàng đế nhà Nguyễn chưa bao giờ thôi hi vọng về việc tái thống nhất quốc gia. Gần như ngay lập tức sau khi Pháp chiếm được Bắc Kỳ, hoàng đế Đồng Khánh (1885 – 1889) đã cho biên soạn bộ địa dư “Đồng khánh địa dư chí lược” (同慶地輿志略) hay còn gọi là “Đồng Khánh địa dư chí” (同慶地輿志) với phong cách tiếp tục Âu hóa hơn nữa tuy nhiên chỉ thể hiện khu vực miền Trung và Bắc Việt Nam vì 6 tỉnh Nam Kỳ vào năm 1867 đã thuộc về Pháp.

Ngoài ra trong triều Đồng Khánh còn xuất hiện một bộ bản đồ tập hợp bản đồ các triều đại gọi là “Đại Nam quốc biên giới vị (vựng) biên” (大南國疆界彙編) hoặc còn có tên “Đại Nam cương giới vựng biên lược sao” (大南疆界彙編略抄) do các tác giả Hoàng Hữu Xứng, Nguyễn Hữu Độ, Phan Đình Xứng biên soạn. Bao gồm 1 bản đồ toàn quốc, 1 bản đồ kinh đô và mỗi tỉnh trong cả nước khi đó ( 31 tỉnh) đều có 1 bản đồ riêng. Các bản đồ vẽ theo phong cách một nửa truyền thống, một nửa phương Tây. Trong bản đồ bán đảo Đông Dương nhìn chung có thể dễ dàng nhận ra, đường bờ biển vẫn thể hiện theo kiểu cũ. Hệ thống sông Cửu Long được vẽ khá giống trong “Đại Nam nhất thống dư đồ”.


Sau đó 2 thập kỷ (Khoảng năm 1909) dưới thời hoàng đế Duy Tân (1907 – 1916), một tái bản của “Đại Nam nhất thống chí” xuất hiện dù lần này chỉ gói gọn trong lãnh thổ Miễn Trung. Phiên bản này có 17 chương, mỗi chương có 1 bản đồ, thể hiện tổng cộng 11 tỉnh, kinh đô và phủ Thừa Thiên, thêm vào đó là bản đồ quốc gia, ngoài ra có cả bản đồ Tử Cấm Thành ở Huế. Phiên bản này có hướng Âu hóa tới mức xuất hiện minh họa la bàn trên bản đồ, cùng các dấu hiệu xác định như đường sắt. Nét vẽ sông và biển khá thực tế nhưng núi thì không được thể hiện.

Trong thời kỳ là thuộc địa của Pháp, các học giả Việt Nam bắt đầu phát triển phong cách bản đồ mới, có một chút thiếu thực tế và nhiều chất Á Đông hơn. Ta có thể thấy nó trong 2 tập bản đồ là “Nam Bắc kỳ họa đồ”, tập bản đồ này là bản sao chép có chỉnh sửa của “Đại Nam nhất thống dư đồ” (1860). “Nam Bắc kỳ họa đồ” cho thấy sự ảnh hưởng nhất định từ xu hướng thực tế của phương Tây. Nhưng những người vẽ bản đồ cuối cùng vẫn lựa chọn phong cách nặng theo hướng Trung Quốc hơn với nét vẽ biển cuộn sóng tròn và núi hình thẳng đứng, chạy theo đường Các-xtơ (Karst).

Tập bản đồ thứ 2 là “Tiền Lê Nam Việt bản đồ mô bản” (前黎難越版圖摹本) Tập bản đồ Việt Nam: bản đồ Thãng Long, 13 thừa tuyên và 2 bản đồ toàn quốc. Đây là bản sao tập bản đồ thời Lê và phần vẽ thêm vào năm 1839. Ngoài sự thể hiện như truyền thống bản đồ này còn cho thấy hệ thống sông và đường bờ biển Đông Dương. Tuy nhiên sự diễn tả của bản đồ này là một bước đi từ phong cạch hiện thực kiểu Phương Tây thế kỷ 19 tới phong cách ấn tượng kiểu Á Đông.

Trong thực tế 2 tác phẩm này có thể đại diện cho một sự lựa chọn của các văn nhân Việt Nam khi đó, họ từ chối cách vẽ bản đồ khoa học và chi tiết kiểu Pháp mà hướng theo phong cách nghệ thuật kiểu Trung, đây cũng gần như là một hình thức tỏ thái độ chính trị ngầm của họ với sự cai trị của Pháp.


Một tập bản đồ khác vào giữa thế kỷ 19 miêu tả các thành lũy xây theo kiểu Vauban được nhà Nguyễn học tập từ người Pháp. Trong kho tài liệu của Département et région d'outre-mer (Bộ thuộc địa Pháp) còn lưu giữ một số bản đồ kiểu này, đó là bản đồ các tỉnh Hà Nội, Sơn Tây, Tuyên Quang, Nam Định và Nha Trang. Mỗi bản đồ đều vẽ những điều khác nhua nhưng cùng chung phong cách bản đồ phương Tây, phản ánh trong đó nhiều điều bao gồm cả hệ thống thành lũy.

Bất chấp những khác biệt các bản đồ này đều phản ánh thiết kế thành lũy kiểu Vauban từ thời Trần Văn Học vẽ bản đồ Gia Định năm 1816. Tuy vậy các bản đồ này không phải bản đồ đô thị chi tiết như của Trần Văn Học. Chúng mặc dù vẽ theo kiểu phương Tây nhưng kết cấu rất đơn giản và gần như kết cấu của bản đồ thời Lê, chỉ thế hiện tường thành và các công trình quan trọng của chính phủ, cùng một số công trình nghi lễ, không xuất hiện miêu tả nào về đời sống dân cư – kinh tế.


Trong quá trình tấn công Bắc Kỳ lần 2 những năm 1880 - 1884, người Pháp cũng đã tiến hành vẽ bản đồ và dùng các bản đồ địa phương để hỗ trợ chiến tranh và cai trị. Thư viện Quốc gia Pháp và thư việc bang Bayern ở Munich, Đức còn giữ 2 bản đồ mà rõ ràng đã được người Pháp sử dụng trong chiến dịch này. Họ đã sao chép bản đồ địa phương hoặc ủy quyền cho ai đó vẽ bản đồ để biết được thông tin về địa hình. Trên bản đồ còn có hệ thống ký tự Latinh tức là chữ quốc ngữ, điều này chỉ ra sự khéo thích nghi với môi trường của người vẽ ra bản đồ.

Chúng ta có 1 bản đồ Hà Nội, 1 của Ninh Bình và còn lại là Nam Định là những vùng thuộc Nam đồng bằng sông Hồng, tiếp đó là 2 bản đồ Sơn Tây, 6 bản đồ vùng núi phía Bắc và Tây Bắc ( Thuộc các tỉnh Lào Cai, Thái Nguyên, Lạng Sơn), tổng cộng 13 bản đồ. Bản đồ được vẽ với mực đen, màu khác được dùng cho mục đích khác (các tuyến đường màu đỏ, sông ngoài màu xanh, núi màu nâu hoặc xám).

Thành quách được vẽ với đặc trưng hình dạng Vauban của chúng. Mười ba bản đồ trên cho thấy dấu hiệu sự tồn tại sẵn có của những bản đồ thuộc miền Bắc Việt Nam nửa cuối thế kỷ 19.

Các dạng bản đồ địa phương khác cũng tồn tại trong thời Nguyễn. Các danh mục sưu tập tại Hà Nội liệt kê một số bản đồ các làng xã, nhưng chúng tôi nhận thấy không cần phải giới thiệu chúng ở đây. Một loại bản đồ địa phương khác cũng rất quan trọng với chính phủ đó là địa bộ. Các địa bộ này ghi chép về từng làng, cho thấy mỗi vùng đất, kích thước và kiểu đất. Chính phủ đã tiến hành các cuộc điều tra theo từng phần, mặc dù chúng tôi vẫn chưa biết các thức cụ thể của việc điều tra ra sao.

Bản đồ lăng tẩm hoàng gia triều Nguyễn, trích từ “Les Tombeaux de Hue: Cia-Long” của Charles Patris và L. Cadiere.

Các tập bản đồ cuối cùng mà chúng tôi quan tâm trong công trình nghiên cứu này lại rất khác biệt. Đó là bản đồ vẽ lại sơ đồ các lăng tẩm của nhà Nguyễn. Nó được vẽ với nét vẽ của Âu hóa, nhưng các đặc tính bên trong thì lại đậm chất Á Đông, họ đã vẽ nổi bật núi và nước, phản ánh ảnh hưởng vẫn còn rất mạnh mẽ của văn hóa Á Đông vào thời Nguyễn. Nhà nghiên cứu Rolf Stein trong cuốn “The World in Miniature” đã chỉ ra sự liên quan mật thiết giữa các lăng mộ này với các mô hình giả sơn cổ, vì chúng đều tuân theo quy luật phong thủy, các dấu hiệu tín ngưỡng, tôn giáo.
Kết luận
Sự phát triển của nghành bản đồ học Việt Nam luôn đi cùng với các cố gắng của các chính quyền trong lịch sử nhằm mở rộng sự kiểm soát với đất nước. Bản đồ thể hiện các địa điểm nằm trong quyền kiểm soát của nhà nước và triều đình thông qua bản đồ để nắm được thông tin từ đó tìm cách cai trị, khai thác nguồn nhân lực, vật lực, tài nguyên.
Bởi vậy bản đồ Việt Nam thời kỳ tiền hiện đại gắn chặt với sự bảo trợ của chính quyền, cũng như mô hình quan liêu, mô hình quốc gia ảnh hưởng từ Trung Hoa. Cũng từ đó phần lớn phong cách của bản đồ là theo kiểu Trung.
Trong thời kỳ Lý – Trần khi mà mức độ tập trung chuyên chế quan liêu, cũng như sự chặt chẽ của nhà nước còn chưa cao thì việc thu tjaap dữ liệu để vẽ bản đồ cũng tương tự. Tới thời Lê và Nguyễn khi chế độ quân chủ tập quyền ngày càng hoàn thiện thì nhu cầu vẽ bản đồ và khả năng cung cấp tư liệu để vẽ bản đồ cũng ngày càng cao hơn.
Nội dung thể hiện của bản đồ Việt Nam chủ yếu là trong phạm vi quốc gia ít ở bên ngoài. Nếu có thì thường là nói tới các tuyến đường đi tới biên giới phía Bắc hoặc Nam, chứ không xa hơn. Các tuyến đường đi về phương Nam thường có điểm cuối là thủ đô Champa, nhưng lãnh thổ của Champa sau đó cũng sát nhập với Việt Nam. Cũng có khi chúng tiến tới khu vực Campuchia mà cụ thể hơn là Angkor, nhưng thời Nguyễn Campuchia cũng bị sát nhập. Chỉ có các tuyến đường đi tới Trung Hoa và Xiêm La, là những vùng lãnh thổ ngoài Việt Nam hiếm hoi được thể hiện, những cũng chỉ được thể hiện qua các bản đồ đường bộ là chủ yếu, ít có bản đồ đường thủy. Còn bản đồ đường biển thì không thấy xuất hiện trong lịch sử bản đồ Việt Nam. Tuy nhiên các ảnh hưởng của phương Tây mạnh mẽ vào Việt Nam trong khoảng cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 cũng đã cung cấp thêm những cái nhìn và các chi tiết về một khu vực Đông Nam Á trong các bản đồ vào thời điểm đó. Tuy vậy, Đông Á nói riêng và Châu Á nói chung, rộng hơn là bản đồ thế giới cũng vẫn xuất hiện mờ nhạt trong lịch sử bản đồ Việt. Các bản nhật trinh cung cấp nhiều thông tin giá trị về Việt Nam và một số địa điểm nước ngoài thực chất vẫn nằm trong khuôn khổ văn hóa trước những năm 1800. Cho tới giữa thế kỷ 19, bản đồ Việt Nam không đi theo hướng chú trọng thực tế, những phong cách vẽ bản đồ mới du nhập từ phương Tây chủ yếu dành cho các bản đồ của nhà nước.
Nghiên cứu của chúng tôi hiện tại chỉ mang tính khởi đầu, chắc chắn còn rất nhiều câu hỏi cần được trả lời, nhiều vẫn đề còn cần được nghiên cứu dựa vào các nguồn tìa liệu khác nhau. Nhìn chung, chúng ta khi nghiên cứu về lịch sử bản đồ học Việt Nam cần sử dụng các dữ liệu bản đồ để tăng hiểu biết về xã hội, lịch sử Việt, cũng như sự tự nhận biết, liên kết, phát triển của nó với thế giới qua các thời đại.


Hết.





Thứ Ba, 17 tháng 1, 2017

CÔNG NỮ NGỌC VẠN!

Bài của Thầy Bửu Minh (Nguyễn Hiền Đức)

I- VÙNG ĐẤT BÀ RỊA-ĐỒNG NAI-GIA ĐỊNH NGÀY XƯA
Bà Rịa ngày xưa được gọi là Bà Lị, hay vùng Mô Xoài.


Tác giả Bửu Minh- Nguyễn Hiền Đức
Đồng Nai ngày xưa gọi là Lộc Dã hay Lộc Động (theo chữ Nho), gọi là Đồng Nai là vì vùng này trước kia là cánh đồng có nhiều nai.
Gia Định ngày xưa nổi tiếng với Bến Nghé và Sài Gòn.
Vùng đất Bà Rịa-Đồng Nai-Gia Định ngày xưa thuộc lãnh thổ nước Phù Nam. Sau khi vương quốc Phù Nam suy tàn, Chân Lạp phát triển, một số bộ tộc Phù Nam như Mạ, Chu Ru, Cọp, Che Sre, Koho, Lat... rút về sống ở vùng lưu vực sông Đồng Nai, lên đến tận cao nguyên Lâm Viên (Lâm Đồng ngày nay), lập thành nước Châu Mạ (Chu Mạ).
Khi vương quốc Chân Lạp thôn tính Phù Nam, tiểu quốc Châu Mạ cũng phải chịu thần phục Chân Lạp, nhưng vẫn còn được tự chủ nhờ ở xa kinh đô Angkor của Chân Lạp (vùng Đế Thiên - Đế Thích). Tiểu quốc Châu Mạ nằm giữa nước Chiêm Thành và Chân Lạp.

Đến thế kỷ 17, nước Chân Lạp bị suy yếu và phải dời kinh đô về Oudong.
Năm 1620, Chúa Sãi (Nguyễn Phước Nguyên) gả công chúa Ngọc Vạn cho vua Chey Chetta II của Chân Lạp, người Việt bắt đầu can thiệp vào triều đình Chân Lạp, và vào làm ăn ở vùng Đồng Nai, tiểu quốc Châu Mạ cũng tan rã. Các bộ tộc nhỏ như Mạ, Srê, Kôhô, Cọp, Cil... tránh xa nơi người Việt đến sinh sống vì sợ thế lực của triều đình chúa Nguyễn. Các bộ tộc này lui dần lên vùng rừng núi hoang vắng của thượng lưu sông Đồng Nai và lên đến tận cao nguyên Lâm Viên và Tây Nguyên.

Vùng đất Bà Rịa, Đồng Nai khi người Việt mới đến cư trú là vùng rừng núi rậm rạp, hoang vu với những khu rừng rậm trải dài từ Rừng Lá đến vùng thác Trị An của vùng hạ lưu sông Đồng Nai và vùng rừng rậm giữa lưu vực sông Đồng Nai và sông Bé.

Trong vùng rừng rậm bạt ngàn với các cổ thụ xưa, đi trong rừng cả ngày không thể nhìn thấy được mặt trời, thỉnh thoảng lại có một số núi lẻ loi, những ngọn núi cuối cùng còn sót lại của dãy Trường Sơn hùng vĩ như núi Chứa Chan (hay núi Gia Ray - Long Khánh), núi Thị Vãi, núi Dinh, núi Kỳ Vân (núi Châu Viên - Châu Long) ở Bà Rịa, núi Bửu Long, núi Long Ẩn (Biên Hòa), núi Châu Thới (Bình Dương) và núi Bà Đen ở Tây Ninh.

Vùng rừng núi Bà Rịa-Đồng Nai-Gia Định ngày xưa rất hoang vắng, cây cối rậm rạp, đủ các loại thú rừng, từ loại thú nhỏ nhoi hiền lành như hươu, nai, thỏ, khỉ…, các loại chim đẹp như công, trĩ, hạc… đến các loại thú dữ như cọp, beo, voi, gấu…, các loại bò sát như trăn, rắn, rít… và có cả tê giác.

Dưới nước trong rừng hay trên sông rạch, có đủ các loại cá, từ cá trê, cá lóc, cá sặc, cá bông lau, đến cả cá chép, ngoài ra lại còn có cả cá sấu, rùa và đỉa nữa. Vì vậy, ca dao ở Đồng Nai có câu:
Dưới sông cá lội,
Trên rừng cọp um.

Một bài thơ xưa ở chùa Long Ẩn cho chúng ta biết khung cảnh thiên nhiên thời xưa ở vùng núi Bửu Long, Long Ẩn như sau:

Trên chùa Long Ẩn, dưới truông voi
Nước bích xem coi rất mặn mòi
Sóng bủa gành nghê hình quái cổ
Nước xao hàng rắn, tiếng reo còi.

hoặc như cảnh rừng núi Bửu Long, được một thiền sư viết thành câu đối ở chùa Bửu Phong như sau:
“Bửu thạch long đầu, cổ cảnh linh qui tại
Phong sơn hổ cứ, vạn đại chiếu phụng tồn”

tạm dịch:
Đá bảo rồng chầu, cảnh xưa chùa linh hiện
Đỉnh núi cọp ngự, muôn đời phụng còn đây.

hoặc câu:
“Bửu Nhạc phối tề y khê lãnh
Phong sơn quang mỹ tợ Kỳ Viên”
(Núi Bửu Long đẹp tợ như núi Nam Nhạc hoa sen nở khắp
Cảnh núi đẹp như rừng Kỳ Viên)

Ngày xưa, đi vào vùng đất Bà Rịa-Đồng Nai-Gia Định, chèo ghe thì sợ cá sấu dưới sông, bước xuống nước trong rừng thì sợ rắn, đỉa, lên rừng chẳng phải sợ thú dữ như cọp, beo, voi, gấu… mà còn sợ cả ma quỷ:
“Chèo ghe sợ sấu cắn chưn
Xuống sông sợ đỉa, lên rừng sợ ma”
Cảnh rừng rậm hoang vắng lại âm u, cây cối chằng chịt, đi trong rừng suốt ngày không thấy được ánh mặt trời, thú dữ thì khắp nơi, trên mặt đất thì gặp cọp, beo, voi… Dưới nước thì cá sấu kêu như trâu rống, đỉa nhiều như bánh canh…
Trong cảnh rừng núi rậm rạp âm u đó, người dân lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, chẳng những sợ thú dữ hay thú độc mà còn kinh hoàng hơn nữa trước cảnh xuất hiện của ma quái yêu tinh.
Ma quái còn ít sợ, yêu tinh mà quấy phá thì hết đời!
Giữa cảnh thiên nhiên rừng núi hoang vu, bao la, huyền bí như thế, người dân đi trong rừng lúc nào cũng lo sợ phập phồng, một tiếng chim vỗ cánh, một tiếng hót của chim, một tiếng cá đớp mồi… cũng làm kinh hoàng khiếp vía, nên ca dao có câu:

Tới đây xứ sở lạ lùng
Chim kêu phải sợ, cá vùng phải kinh

hoặc:
Cỏ mọc thành tinh
Rắn đồng biết gáy

Rừng núi gặp thú dữ, ma quỷ, vùng ao bàu, đầm lầy lại gặp cảnh:
Muỗi kêu như hát bội
Đỉa lội như mắm nêm
hoặc:
Muỗi kêu như sáo thổi
Đỉa lội như bánh canh

Trước cảnh khủng khiếp, nguy hiểm như thế, muốn khai phá rừng, vỡ đất làm ruộng rẫy, người dân phiêu bạt thời đó phải lo chống lại thú dữ, bắt heo rừng, đánh cọp, đuổi beo, săn bắt cá sấu… đều là các việc nguy hiểm và nặng nghiệp, nên tục ngữ có câu: “Nhứt phá sơn lâm, nhì đâm hà bá”.

Nhưng vì phương tiện sinh sống nên phải chịu gian nguy, cực khổ và dũng cảm hy sinh cho tương lai gia đình và cho thế hệ mai sau của đất nước:
Làm trai cho đáng nên trai
Phú Xuân cũng trải, Đồng Nai cũng từng !

Những chàng trai phiêu bạt giang hồ, tìm đất mới cho gia đình, cho quê hương, phải tha phương cầu thực, chịu biết bao gian lao nguy hiểm… Cảnh gian khổ, chua xót của kẻ viễn khách tha phương làm cho người dân địa phương nặng tình thương mến luyến lưu.

Rồng chầu ngoài Huế
Ngựa tế Đồng Nai
Nước sông trong sao lại chảy hoài
Thương người xứ lạ lạc loài đến đây
Tới đây thì ở lại đây
Bao giờ bén rễ xanh cây hãy về

Người đi xa, kẻ ở chốn quê nhà đều nặng tình thương mến, đã có nhân duyên gặp gỡ thì trăm năm vẫn giữ mối tình thắm thiết và giữ tròn lời ước nguyện:
Bao giờ cạn lạch Đồng Nai
Nát chùa Thiên Mụ mới phai lời nguyền
Sau khi khai phá rừng núi, khai hoang ruộng đất ở Bà Rịa-Đồng Nai, số người dân đến Bà Rịa-Đồng Nai dựng nghiệp ngày càng đông, gồm cả người Việt và người Trung Hoa, dân số gia tăng nhanh, đất đai trở nên chật hẹp, thiếu thốn, người dân ở Đồng Nai hoặc những người dân mới từ miền Trung, hay từ Trung Hoa đến (quân dân nhà Minh không chịu thần phục nhà Thanh, sang thần phục chúa Nguyễn), phải tiến xuống Sài Gòn.
Hiện chưa biết cộng đồng người Việt và một số ít người Trung Hoa đến Đồng Nai-Sài Gòn từ lúc nào? Chỉ biết rằng vào thời chúa Nguyễn, người Việt đến Chân Lạp, đầu tiên sống ở Mô Xoài (hay Môi Xuy), tức vùng núi Dinh (Bà Rịa-Vũng Tàu ngày nay, sau đó tiến lên vùng trung lưu sông Đồng Nai, tức vùng Biên Hòa (Đồng Nai), rồi sau tiến xuống hạ lưu sông Bé và sông Sài Gòn, sống ở vùng Bến Nghé và Sài Gòn (Sài Gòn-Chợ Lớn).

II. PHÁT HIỆN THÁP TỔ SƯ NGUYÊN THIỀU- SIÊU BẠCH VÀ THÁP PHỔ ĐỒNG THỜ CÔNG CHÚA NGỌC VẠN Ở CHÙA KIM CANG (TỈNH ĐỒNG NAI).

Ngày 26-12-1988, tôi phát hiện: bảo tháp của Tổ sư Nguyên Thiều-Siêu Bạch và tháp Phổ Đồng ở nền chùa Kim Cang, tại ấp Bình Thảo, xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

Tôi viết bài “Phát hiện mới về tháp của Tổ sư Nguyên Thiều-Siêu Bạch, tháp Phổ Đồng và chùa Kim Cang” đăng trên báo Đồng Nai, số 688, ngày 16-5-1989. Sau đó, bổ sung đầy đủ hơn trong bài “Phát hiện mới về tháp của Tổ sư Nguyên Thiều- Siêu Bạch, tháp Phổ Đồng và chùa Kim Cang ở Đồng Nai” đăng trên hai số báo Bán nguyệt san Giác Ngộ: ngày 15-6-1989 và ngày 01-7-1989, trong đó có hình Tháp Tổ sư Nguyên Thiều- Siêu Bạch và Tháp Phổ Đồng .

Trước nền chùa Kim Cang xưa có hai ngôi tháp cổ: Tháp của Tổ sư Nguyên Thiều- Siêu Bạch (1648-1728) và tháp Phổ Đồng thờ Công chúa Ngọc Vạn và quân dân Việt hy sinh trong cuộc kinh dinh vùng đất Bà Rịa-Đồng Nai-Gia Định.

1.Tháp Tổ sư Siêu Bạch-Nguyên Thiều.


(Xem Hành trạng Tổ sư Nguyên Thiều-Siêu Bạch trong sách “Lịch sử Phật giáo Đàng Trong” của Nguyễn Hiền Đức, nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1995)

2. Tháp Phổ Đồng ở chùa Kim Cang:

Tháp Phổ Đồng ở chùa Kim Cang

Các sách sử đời chúa Nguyễn không cho biết tông tích về công chúa Ngọc Vạn vì bí mật quốc gia, nhưng các sách sử của Cao Miên có đề cập đến việc chúa Sãi (Nguyễn Phước Nguyên) gả con gái cho vua Chey-Chetta II vào năm 1620, nhưng cũng rất sơ lược.
Qua các sách sử hiện đại, và nhứt là từ sau khi chúng tôi phát hiện tháp Phổ Đồng và bảo tháp của Tổ sư Nguyên Thiều-Siêu Bạch ở chùa Kim Cang tọa lạc tại ấp Bình Thảo, xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, chúng tôi có nhiều cứ liệu để xác minh vai trò công chúa Ngọc Vạn trong việc đưa dân Việt Nam di cư đến vùng đất Bà Rịa-Đồng Nai-Sài Gòn và việc hộ trì Phật giáo của Bà ở Chân Lạp rất là quan trọng trong lịch sử Việt Nam thời đó.

Tháp Phổ Đồng được làm bằng một khối hóa chất (ô dước trộn vôi, cát…) gồm hai phần : chiếc mão hoàng hậu (?) cao gần 2m, đáy mão hình tròn có đường kính gần 2m, chiếc mão đặt trên một nền tháp khối vuông, cạnh khoảng 2m, cao khoảng hơn 1m.

Theo truyền thuyết của dân địa phương: tháp Phổ Đồng là nơi thờ bà Công chúa, nhưng không ai biết Công chúa đó tên gì ! Họ chỉ biết rằng tháp Phổ Đồng do vị Tổ của chùa Kim Cang lập để thờ bà Công chúa, nhưng họ cũng không biết vị Tổ của chùa Kim Cang là vị sư nào?

Nhưng qua phát hiện bảo tháp của Tổ sư Nguyên Thiều-Siêu Bạch ở chùa Kim Cang, ở gần tháp Phổ Đồng, chúng tôi biết được chùa Kim Cang do Tổ sư Nguyên Thiều-Siêu Bạch sáng lập vào cuối thế kỷ XVII. Tổ sư Nguyên Thiều có nhiều liên hệ đến các chúa Nguyễn và Phật giáo Đàng Trong (xem sách Lịch sử Phật giáo Đàng Trong cùng tác giả).

Tổ sư Nguyên Thiều lập tháp Phổ Đồng ở chùa Kim Cang vào khoảng 1694-1695 cũng như Tổ sư đã sáng lập tháp Phổ Đồng tại chùa Quốc Ân tại đô thành Phú Xuân (Huế) vào năm 1684 (tháp này và chùa Quốc Ân đã bị quân Tây Sơn phá hủy năm 1786, khi Tây Sơn chiếm Phú Xuân). Tổ sư Nguyên Thiều lập các tháp Phổ Đồng này để thờ công chúa Ngọc Vạn, cùng tướng sĩ người Việt và người Trung Hoa đã bị tử trận trong việc kinh dinh ở vùng đất Đồng Nai-Gia Định v hộ trì Phật giáo ở Đồng Nai và Chân Lạp.

3. Bộ kỷ trà có khắc chữ “Công chúa Ngọc Vạn” (?):
Theo lời kể của bà Ba Dựa, dâu của ông Sáu Vạn (người tổ chức xây dựng chùa Kim Long Cổ tự, kết hợp chùa Thanh Long về cổ vật ở chùa Kim Cang vào khoảng năm 1963): Ngày trước, khi ông Sáu Vạn còn sống vẫn đề cập đến bộ kỷ trà, có các chung bằng vàng, trên chung có khắc “Công chúa Ngọc Vạn” chữ Nho ở chùa Kim Cang.

Bà Út Quỳnh có ở tại chùa lúc mới mười mấy tuổi, có kể rõ hơn như sau: Bộ kỷ trà để cúng Phật tại chùa Kim Cang, khay trà làm bằng gỗ khảm xà cừ, các chung đựng nước giống như bằng đồng hay vàng, ở đáy có khắc chữ Nho, khi đưa lên ánh sáng thì thấy, nhưng vì bà còn nhỏ nên không biết chữ đó là chữ gì!

4.Bức tranh họa trên lụa hình Bồ tát Quán Thế Âm:
Ngày xưa ở chùa Kim Cang có một bức tranh Bồ tát Quán Thế Âm vẽ trên lụa rất sống động và mỹ thuật, là cổ vật của Tích Lan (theo lời kể của bà Hai Thủy, pháp danh Quảng Ngộ), bức tranh này của Tích Lan tặng cho vua Chân Lạp, sau khi vua mất, Thái hậu Ngọc Vạn tặng cho chùa Kim Cang.

5. Long vị của Thiền sư Minh Vật-Nhứt Tri bằng đá cẩm thạch: Nhờ Long vị nầy đính chánh sai lầm trong sách Việt Nam Phật giáo Sử lược của Mật Thể và một số sách Lịch sử Phật giáo khác, Nhứt Tri chớ không phải là Nhứt Trí.

Long vị của Thiền sư Minh Vật-Nhứt Tri thờ ở chùa Kim Long Cổ Tự

Ngoài ra, chùa Kim Cang xưa còn có một số cổ vật quý khác như:
* Tượng Phật Chuẩn Đề: bằng đồng màu đen, cao khoảng 0,8m đến 1m (chưa biết rõ bằng đồng đen hay đồng đỏ mạ đen hoặc bằng vàng mạ đen ?).
* Tượng Bồ tát Quán Thế Âm: bằng đá quý màu trắng, cao khoảng 0,6m đến 0,8m.
* Tượng Đấu Chiến Thắng Phật: bằng đồng, cao khoảng 0,4m – 0,6m, một cánh tay bắt ấn (giơ thẳng lên trời) trên tay có đeo vòng bằng vàng ?
* Nhiều tượng La hán: bằng đồng, bằng gỗ khác…
* Đại hồng chung: đã bị thất lạc (nhà thờ Tân Triều).
* Tiểu hồng chung: hiện còn ở chùa Kim Long cổ tự, trên có khắc “Kim Cang tự”.
Có thể còn nhiều tượng Phật, pháp khí, cổ vật khác…

Theo lời kể của ông Tám (trụ trì chùa Cửu Thiên ở Thủ Đức), ngày xưa chùa Kim Cang còn có :
- Bảng tên “Kim Cang tự” do quận chúa Ngọc Du, em của vua Gia Long, vợ của Thượng tướng quân Võ Tánh tặng (có thể bị cháy 1946).
- Ba tượng Phật tam thế rất to bằng giấy bồi do vua Gia Long tặng cho chùa (ba tượng này bị thiêu hủy vào năm Nhâm Thìn 1952), vì ngày xưa, Nguyễn Vương Nguyễn Phúc Ánh có ẩn tránh ở chùa Kim Cang và vùng Đá Lửa (Tân Triều) một thời gian (khoảng năm 1776-1782), nhân dịp này, Nguyễn Vương có gặp Giám mục Bá Đa Lộc ở nhà thờ Tân Triều. Năm 1778, Nguyên soái (Nguyễn Vương) Nguyễn Phước Ánh đã lập Triều đình tại vùng Đá Lửa nầy, nên gọi là Tân Triều.

Giám mục Bá Đa Lộc dời Chủng viện ở Hà Tiên về gần Nhà thờ Tân Triều khi quân Miên (Chân Lạp) đánh chiếm và cướp phá Hà Tiên. Giám mục Bá Đa Lộc còn lập Tòa Giám mục tại Tân Triều.
- Một tấm đá quý, láng, trên mặt óng ánh vàng, rộng khoảng 1,2m, do chúa hay vua nhà Nguyễn tặng cho chùa.
Chùa Kim Cang do Tổ sư Nguyên Thiều thành lập, Tổ sư Nguyên Thiều được coi như vị khai sơn Phật giáo Đàng Trong (Phật giáo Nam Hà), các đệ tử và pháp tôn của Ngài vẫn còn truyền thừa liên tục đến ngày nay và Tổ sư Nguyên Thiều viên tịch ở chùa Kim Cang. Do đó, tháp của Tổ sư Nguyên Thiều ở chùa Kim Cang là tháp chánh, tháp ở Huế (gần chùa Trúc Lâm) là tháp vọng. Vì vậy, chùa Kim Cang có vai trò quan trọng trong lịch sử Phật giáo thời các chúa Nguyễn và thời Nhà Nguyễn.

Chúng ta nghiên cứu kỹ về chùa Kim Cang và nhà thờ Tân Triều (Giám mục Bá Đa Lộc đã mở Chủng viện và lập Tòa Giám mục tại đây) và vùng đất Tân Triều – Bến Cá (xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai) sẽ bổ túc được nhiều tài liệu cho lịch sử Phật giáo Việt Nam, Lịch sử Công giáo Việt Nam và lịch sử Việt Nam [Ở Đồng Ông Binh gần chùa Kim Long Cổ Tự có lăng mộ của Thượng thư Bộ Binh họ Phạm , …].

III- VAI TRÒ CÔNG CHÚA NGỌC VẠN TRONG VIỆC KINH DINH Ở BÀ RỊA-ĐỒNG NAI VÀ GIA ĐỊNH

Theo tài liệu xưa, chúa Sãi gả công chúa Ngọc Vạn cho vua Chey Chetta II của Chân Lạp, vào năm 1620, như vậy công chúa Ngọc Vạn có thể được sinh vào khoảng năm 1600-1605 (ngày xưa các thiếu nữ được gả lấy chồng vào khoảng 16 tuổi đến 20 tuổi).

Công chúa Ngọc Vạn rất đẹp, thông minh đức hạnh, thùy mị đoan trang. Nguyễn Văn Quế, trong sách “Histoire des Pays de Le Union-Indochinoise: Việt Nam, Cambodge, Laos” (Lịch sử các nước Đông dương: Việt Nam, Cao Miên, Lào) viết: “Sau khi Srey Sauyopor được Xiêm đưa lên ngôi vua ở Chân Lạp năm 1603, nước Chân Lạp bị lệ thuộc chặt chẽ vào Xiêm, phải dùng lễ nghi của Xiêm.

Năm 1618, vua Chân Lạp là Srey Sauryopor có lẽ muốn thoát ly ảnh hưởng của Xiêm nên nhường ngôi cho trưởng nam là Chey Chetta II và mất năm sau (1619).
Vua Chey Chetta II từ nhỏ sống ở Xiêm, lớn lên thấy triều đình Chân Lạp bị lệ thuộc chặt chẽ vào triều đình Xiêm, lại có tư tưởng tự chủ, nên khi vừa lên ngôi, vua Chey Chetta II đã có ý thoát khỏi ảnh hưởng của Xiêm, vì vậy vua đã tìm hậu thuẫn với Đại Việt và Lào để hỗ trợ trong việc chống lại sự đô hộ của Xiêm bằng cách cầu thân với vua Lào và Chúa Nguyễn:

Vua Chey Chetta II đã xin cưới công chúa Lào và cầu hôn với công chúa con của chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên.
Vua Chey Chetta II dời kinh đô đến Oudong vào năm 1620, và cũng năm ấy, vua cưới con Chúa Nguyễn Phước Nguyên (1613-1635) là Ngọc Vạn. Bà công chúa Việt được phong làm hoàng hậu và rất được sủng ái, nhờ sắc đẹp tuyệt vời và có nhiều đức hạnh. Người Miên và người Việt đã trở nên đồng minh từ năm 1620 và cả suốt thế kỷ XVII.

Công chúa Ngọc Vạn có sắc đẹp, đoan trang thùy mỵ lại thông minh xử sự khéo léo nên không bao lâu đã chiếm được lòng yêu thương của vua. Vương phi Ngọc Vạn sau đó hạ sanh được một con trai nên được phong làm hoàng hậu, con của bà sau là thái tử Chau Ponhea. Năm 1624, hoàng hậu Ngọc Vạn lại sanh thêm một công chúa, tên là Néang Nhéa Ksattrey.

Hoàng hậu Ngọc Vạn đã xin cho dân Việt và người Trung Hoa (dân nhà Minh không chịu thần phục nhà Thanh, bỏ nước sang xin thần phục với chúa Nguyễn) được đến khai khẩn đất đai, làm ăn sinh sống ở Mô Xoài (gần Bà Rịa ngày nay) và vùng lưu vực sông Đồng Nai. Người Việt đến khai khẩn vùng nào thì người Chân Lạp phải bỏ đi nơi khác vì sợ uy quyền của triều đình chúa Nguyễn. Trong sách “Gia Định thành thông chí”, An Toàn hầu Trịnh Hoài Đức viết như sau:

“Khi ấy địa đầu Gia Định là Mô Xoài và Đồng Nai đã có lưu dân của nước ta đã đến ở chung lẫn lộn với người Cao Miên khai khẩn ruộng đất. Người Cao Miên khâm phục oai đức của triều đình [Chúa Nguyễn] nên đem nhượng hết cả đất ấy, rồi tránh ra chỗ khác, không dám tranh chấp, phản đối điều gì”.

Ngoài ra, hoàng hậu Ngọc Vạn còn xin với vua Chân Lạp cho người Việt và người Trung Hoa (thần phục chúa Nguyễn) đến buôn bán, mở xưởng thủ công nghiệp ở ngay kinh đô Oudong. Những thương nhân và công nhân các xưởng thủ công nghiệp này, có thể có một số gián điệp của triều đình Phú Xuân, đến hậu thuẫn cho hoàng hậu Ngọc Vạn trong việc gây ảnh hưởng và khống chế triều đình Chân Lạp lệ thuộc vào chúa Nguyễn, chống lại phe Xiêm hoặc phe chống lại Đại Việt.

Hoàng hậu Ngọc Vạn còn đưa được một số thuộc hạ thân cận người Việt và người Trung Hoa vào làm việc trong triều đình Chân Lạp. Chính số tướng sĩ người Việt và người Trung Hoa này đã giúp cho vua Chey Chetta II đánh bại các cuộc tấn công của quân Xiêm vào Chân Lạp trong năm 1621-1623.

Được sự hỗ trợ của hoàng hậu Ngọc Vạn, chúa Nguyễn khuyến khích các cuộc di dân từ lãnh thổ Đàng Trong vào làm ăn ở Đồng Nai, Sài Gòn và Oudong. Di dân đến khai khẩn đất và làm ăn sanh sống ở Bà Rịa-Đồng Nai và Sài Gòn ngày càng đông đảo hơn nhiều. Sau khi chúa Sãi giúp quân cho vua Chân Lạp đánh bại quân Xiêm (Thái Lan) ở biên giới Chân Lạp trong các năm 1621-1622, chúa Sãi cử sứ giả đến kinh đô Oudong xin vua Chey Chetta cho triều đình chúa Nguyễn được lập một “Sở thâu thuế” tại thành phố Prey Nokor (hay Prey Kor có nghĩa là rừng Gòn), dân địa phương gọi là Sài Gòn, vua Chân Lạp chấp thuận.

Việc triều đình chúa Nguyễn xin cho lập “Sở thâu thuế” ở Sài Gòn cho chúng ta biết được rằng: vào lúc đó ở thành phố Sài Gòn đã có người Việt đến sinh sống đông đảo và dân chúng buôn bán phát đạt, thương mãi thịnh vượng nên mới lập “Sở thâu thuế” . Ngoài ra với lý do cần có đội quân để bảo vệ cho việc thâu thuế và bảo đảm an ninh trật tự cho người Việt làm ăn buôn bán ở Sài Gòn, chúa Sãi đã có cử một đạo binh vào trấn đóng ở Sài Gòn. Sau đó, chúa Sãi cũng khuyến khích dân chúng từ Đàng Trong di cư vào Sài Gòn.

Sử gia Henri Russier trong sách “Histoire Sommaire Du Royaume De Cambodge” (Lược sử vương quốc Cao Miên) viết như sau: “ Vua Chey Chetta II sống từ nhỏ ở bên Xiêm, là nơi ông ta không giữ được những kỷ niệm tốt, nên ông ta tìm cách cầu thân với nước láng giềng phía Đông, và chúa Nguyễn lúc bấy giờ cũng chờ cơ hội tốt để mở mang bờ cõi, bèn gả công chúa cho vua Cao Miên. Công chúa rất đẹp và được vua Miên sủng ái vô cùng”.

Nhờ sự giao hiếu ấy, và viện trợ binh đội của chúa Nguyễn mà vua Cao Miên đã hai lần, vào năm 1621 và năm 1623, đẩy lui được cuộc xâm lăng của quân Xiêm.

Năm 1623, sứ bộ Việt từ Huế vào Oudong yết kiến vua Cao Miên và dâng nhiều ngọc ngà châu báu, đồng thời xin cho người Việt vào khai khẩn và sinh cơ dựng nghiệp tại miền Nam (Đất Việt trời Nam của Thái Văn Kiểm, trang 45).

Tập niên giám viết tay của Thư viện Hoàng gia Cao Miên dưới triều vua Chey Chetta II, trang 369, ghi sự việc này như:

Năm Phật lịch 2169, tức là năm 1623 Dương lịch, một sứ giả của vua An Nam (chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên) dâng lên vua Cao Miên Chey Chetta II một phong thơ, trong đó vua An Nam ngỏ ý “mượn” của nước Cao Miên xứ Prey Nokor (Sài Gòn) và xứ Kas Krobey (Bến Nghé) để đặt làm nơi thâu thuế. Vua Chey Chetta II sau khi tham khảo ý kiến của quần thần, đã chấp thuận lời yêu cầu trên và phúc thư cho vua An Nam biết. Vua An Nam bèn ra lịnh cho quan chức đặt Sở Quan thuế tại Prey Nokor và Kas Krobey, và từ đó bắt đầu thâu quan thuế (Sử Cao Miên của Lê Hương, Sài Gòn, 1970, trang 154).

Quốc vương Chey Chetta II rất mộ đạo Phật, cai trị đất nước rất sáng suốt, từ năm 1620 đến năm 1624, Ngài xây dựng kinh đô Oudong, cho soạn lại bộ luật của Cao Miên.

Trong thời gian cai trị Chân Lạp, vua Chey Chetta II có lẽ đã có giao thiệp với nhiều nước ngoại quốc, ngoài Lào, Đại Việt còn có thể giao thiệp với Ấn Độ, Tích Lan, Mã Lai, Nam Dương…

Khi đó, tất cả vùng đất từ Prey Nokor đến biên giới Chiêm Thành (miền Đông Nam Bộ ngày nay) gồm vùng Sài Gòn, Mô Xoài (Bà Rịa) và tỉnh Kampéâp Skékatrey (Biên Hòa) đều có người Việt làm ăn sinh sống và đặt dưới quyền cai trị của quan tướng Việt Nam thuộc triều đình chúa Nguyễn.

Sau khi vua Chey Chetta II chết (năm 1628), nội bộ triều đình Chân Lạp xảy ra nhiều cuộc tranh giành ngôi vua và tranh chấp giữa các phe thân Việt, thân Xiêm, thân Lào, thân Chiêm ...

Hoàng đệ Prah Outey được triều đình Chân Lạp cử làm phụ chánh và thái tử Chau Pônhea To là con của vua Chey Chetta II và công chúa Ngọc Vạn còn tu trong chùa (1628) ?

Năm 1629, thái tử Pônhea To về lên ngôi vua, Hòang hậu Ngọc Vạn trở thành Thái hậu.
Nhưng năm 1630, vua Pônhea To bị Prah Outey hạ sát, Outey đưa một người con khác của vua Chey Chetta II là Pônhea Nu lên ngôi, Outey vẫn làm phụ chánh và nắm hết quyền hành.

Năm 1640, vua Pônhea Nu chết trong trường hợp bí mật (có thể Prah Outey giết), Prah Outey đưa con mình lên ngôi vua, tức vua Ang Non (Nặc Ông Nộn I).
Năm 1642, hoàng tử Pônhea Chan (con vua Chey Chetta II và công chúa Lào) nhờ người Mã Lai và người Chiêm Thành phụ giúp, tổ chức cuộc nổi loạn cướp chính quyền (đảo chánh), giết chết phụ chánh và bắt giết vua Nặc Ông Nộn I, hoàng tử và các cận thần. Pônhea Chan lên ngôi lấy hiệu là Rama Thupdey Chan, sách sử Việt gọi là Nặc Ông Chân (1642-1659), dân Chân Lạp gọi là “Prah Réam Cholsas”, nghĩa là “vua Rama thay đổi tôn giáo” và vua Nặc Ông Chân cưới vợ người Mã Lai, nhờ người Mã Lai và Chiêm Thành theo Hồi giáo giúp lên ngôi, nên bỏ Phật giáo, theo Hồi giáo với tên là Ibrahim, bất chấp sự phản đối của hoàng gia và triều thần. Vua Nặc Ông Chân ưu đãi cho Hồi giáo và ban nhiều ân huệ cho người theo Hồi giáo ở Chân Lạp.

Trong thời gian đó, có lẽ công chúa Ngọc Vạn và một số cận thần người Việt về sống ở vùng đất Bà Rịa-Đồng Nai.

Hai vị hoàng thân là Pônhea Sô và Ang Tan (con của Prah Outey) trốn thoát được trong cuộc biến loạn năm 1642.

Năm 1658, hai vị hoàng thân này nhờ thái hậu Ngọc Vạn xin chúa Hiền Nguyễn Phước Tần (1648-1687) cử quân đến Chân Lạp để giành lại chính quyền. Chúa Hiền sai phó tướng dinh Trấn Biên ở Phú Yên là Nguyễn Phước Yến, cai đội Xuân Thắng và tham mưu Minh Lộc đem 3.000 quân đến đánh Mô Xoài (Bà Rịa), bắt được vua Nặc Ông Chân đưa về hành dinh của chúa ở Quảng Bình (đóng dinh ở đây để chỉ huy chống lại cuộc tấn công của chúa Trịnh).

Năm sau (1659), vua Nặc Ông Chân chết, chúa Hiền đưa hoàng thân Pônhea Sô lên làm vua ở Chân Lạp, lấy hiệu là Batom Reachea (1660-1672). Nhớ ơn đó, nên vua Reachea cho người Việt sống trên lãnh thổ Chân Lạp được hưởng quyền lợi như người Chân Lạp, và kể từ đó, các chúa Nguyễn can thiệp trực tiếp vào công việc nội bộ của triều đình Chân Lạp, để tranh giành quyền hành với Xiêm đã có từ trước ở triều đình Chân Lạp.

Năm 1672, vua Batom Reachea bị ám sát chết, triều đình Chân Lạp xảy ra nhiều cuộc chém giết tranh giành ngôi vua. Cuộc khủng hoảng này kéo dài đến năm 1675 mới tạm ổn định.

Lúc đó, hoàng thân Nặc Thu (Ang Saur) là em của vua Nặc Ông Đài đánh bại vua Nặc Nộn II (Ang Non) và quân Việt, Nặc Nộn phải rút về Sài Gòn, Nặc Thu lên ngôi lấy hiệu là Chey Chetta IV (1675-1706) đóng đô ở Oudong. Vua Nặc Nộn II đóng quân ở Sài Gòn với sự trợ giúp của quân chúa Nguyễn.

Năm 1679, các tướng sĩ nhà Minh (Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch, …) không chịu thần phục nhà Thanh gồm 3.000 người, đi 50 chiếc thuyền lớn đến Đàng Trong xin thần phục chúa Hiền.

Chúa Hiền thấy số đông tướng sĩ như thế cho ở lãnh thổ Đàng Trong bất tiện (sợ phản trắc), đồng thời lại muốn dùng nhóm tướng sĩ này trợ giúp cho việc khai thác vùng đất mới trù phú của người Việt ở Đồng Nai và Sài Gòn, đồng thời cũng muốn phân tán bớt lực lượng của tướng sĩ nhà Minh này, nên chia cho làm hai nhóm:

- Tổng binh Trần Thượng Xuyên và phó tướng Trần An Bình cùng binh sĩ bản bộ và gia đình vào sinh sống ở vùng đất Đồng Nai (thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ngày nay).

- Tổng binh Dương Ngạn Địch và phó tướng Hoàng Tiến cùng binh sĩ bản bộ và gia đình vào sinh sống ở vùng Mỹ Tho và lưu vực sông Tiền Giang (sau này là tỉnh Định Tường và nay là tỉnh Tiền Giang).

Với việc làm này, chúa Hiền đã mở rộng vùng đất mà dân Việt đã sinh sống: Đồng Nai-Sài Gòn xuống phía Nam, đến tận lưu vực đồng bằng Cửu Long, mặc dầu lúc đó, lãnh thổ Đàng Trong (Quảng Bình-Khánh Hòa) còn cách với vùng đất Đồng Nai-Mỹ Tho bởi lãnh thổ nhỏ hẹp còn lại của Chiêm Thành (vùng Phan Rang-Phan Rí-Phan Thiết).

Năm 1684, vua Chey Chetta IV (Nặc Thu) nhờ Xiêm giúp đánh bại Ang Non II (Nặc Nộn II), chiếm lại Chân Lạp, Nặc Nộn II phải chạy ra Phú Xuân để nhờ chúa Hiền giúp, có lẽ thái hậu Ngọc Vạn tử trận trong cuộc chiến này, vì năm đó, Tổ sư Nguyên Thiều lập chùa Quốc Ân ở Phú Xuân đã lập tháp Phổ Đồng.

Năm 1687, chúa Hiền chết, con là Nguyễn Phước Trăn lên nối ngôi. Chúa Nguyễn Phước Trăn cử quân đánh Chân Lạp, Nặc Thu xin thần phục nộp triều cống hàng năm và cho người Việt cùng người Trung Hoa (thần phục chúa Nguyễn) được khai khẩn đất đai, làm ăn buôn bán ở vùng Đồng Nai-Sài Gòn. Đại quân của chúa Nguyễn rút về Phú Xuân.

Năm 1691, chúa Nguyễn Phước Trăn mất, con là Nguyễn Phước Châu lên nối ngôi. Năm 1693, chúa Nguyễn Phước Châu cử quân đánh chiếm hết phần đất còn lại của Chiêm Thành, lập nên trấn Thuận Thành, sau đổi là phủ Bình Thuận. Lãnh thổ Đàng Trong lúc đó kéo dài từ sông Gianh vào đến Đồng Nai.

Năm 1692, một người Hoa kiều tên là A Ban nổi loạn ở Bình Thuận, Phú Yên. Năm 1694, một người Hoa kiều khác tên là Quảng Phú ở Qui Nhơn hợp cùng một người Việt xưng là Linh Vương nổi lên chống chúa Nguyễn Phước Châu ở vùng Qui Nhơn-Quảng Nam, chúa phải cử đại quân mới dẹp được.

Vì các cuộc nổi loạn này, Tổ sư Nguyên Thiều và một số thiền sư người Hoa ở Đàng Trong bị liên lụy, khiến cho Tổ sư Nguyên Thiều và đệ tử (Minh Hải-Pháp Bảo) phải trốn lên rừng núi hay vào Chân Lạp lánh nạn.

Năm Mậu Dần (1698), chúa Nguyễn Phước Châu sai Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh đem quân vào kinh lược vùng đất Đồng Nai-Sài Gòn của Chân Lạp, lập thành phủ Gia Định gồm: huyện Phước Long với dinh Trấn Biên và huyện Tân Bình với dinh Phiên Trấn.

Lúc đó phủ Gia Định rộng đến hàng ngàn dặm đất đai với 4 vạn hộ dân, tức khoảng 200.000 dân (trung bình mỗi hộ có 5 người). Phủ Gia Định thời đó tương ứng với miền Đông Nam Bộ ngày nay.

Trong việc thành lập phủ Gia Định này, công lao của công chúa Ngọc Vạn rất lớn. Nhưng vì bí mật quốc phòng nên các chúa Nguyễn không cho viết vào lịch sử. Vì vậy, việc tìm hiểu về công chúa Ngọc Vạn hết sức khó khăn và phức tạp.

Tuy nhiên, qua các sách lịch sử Cao Miên do người Pháp và người Việt viết sau này, chúng ta biết thêm chút ít về tông tích của công chúa Ngọc Vạn. Nhưng với sự phát hiện về tháp Phổ Đồng, bảo tháp của Tổ sư Nguyên Thiều-Siêu Bạch và chùa Quốc ân Kim Cang ở ấp Bình Thảo, xã Bình Phước (nay là xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu) ở Đồng Nai, của chúng tôi vào ngày 26-12-1988, chúng ta có được thêm nhiều di tích của công chúa Ngọc Vạn ở Chân Lạp thời đó và biết được thêm về công đức của bà đối với việc hộ trì Phật giáo ở Chân Lạp và công lao của bà trong việc kinh dinh đất Đồng Nai-Sài Gòn dưới thời các chúa Nguyễn.

Nhưng rất tiếc là, hiện nay chúng ta chưa biết được thái hậu Ngọc Vạn cư ngụ ở đâu trong thời biến động ở Chân Lạp, cũng như chưa biết bà chết trong trường hợp nào, chết ở đâu, vào năm nào? Sau khi bà chết, có xây lăng mộ không, bà có chôn giấu kho tàng ở đâu không? Nếu tìm thấy lăng mộ hay kho tàng của thái hậu Ngọc Vạn thì chúng ta sẽ có thêm nhiều tài liệu về lịch sử Việt Nam thời các chúa Nguyễn. [Bà Hai Thủy (PD Quảng Ngộ) cho biết là Công chúa Ngọc Vạn có kho tàng giành cho Việt Nam, nhưng chưa biết ở đâu ?]

Đồng thời, nếu chúng ta tìm được di tích của công chúa Ngọc Khoa ở nước Chiêm Thành xưa (vùng Khnh Hịa-Lâm Đồng), chúng ta cũng biết rõ thêm về công cuộc Nam tiến của các chúa Nguyễn … [Năm 1627, Chúa Sãi-Nguyễn Phước Nguyên gả Công nữ Ngọc Khoa cho vua Porome của Chiêm Thành].

Qua các di tích của công chúa Ngọc Vạn, bảo tháp của Tổ sư Nguyên Thiều và những cổ vật của chùa Kim Cang được lưu giữ ở chùa Kim Long Cổ Tự (Đồng Nai), chúng tôi nghi rằng: công chúa Ngọc Vạn cư ngụ ở vùng Bình Thảo và vùng lân cận ở sông Đồng Nai (từ Bà Rịa lên đến thác Trị An) trong một thời gian dài. Công chúa Ngọc Vạn cũng có thể còn để lại kho tàng ở vùng này và có lẽ công chúa Ngọc Vạn cũng đã chết và được an táng ở vùng này? Đó là việc nghiên cứu của Viện Khảo cổ và Viện sử học Việt Nam.

Năm 1708, Mạc Cửu trấn đóng ở đất Hà Tiên (Peam), Cần Bột (Kampot), Kompong Som của Chân Lạp, thấy Chân Lạp suy yếu trong lúc Xiêm muốn lấn chiếm nên Mạc Cửu cử sứ giả đến đô thành Phú Xuân xin thần phục và dâng đất cho chúa Quốc Nguyễn Phước Châu (1691-1725). Chúa Quốc phong cho Mạc Cửu là Tổng binh trấn thủ Hà Tiên và phong tước Cửu Ngọc hầu.

Năm 1711, Nặc Ông Thâm được quân Xiêm hỗ trợ, đánh chiếm kinh đô La Bích của Chân Lạp, vua Nặc Ông Yêm cầu cứu quân chúa Nguyễn ở Gia Định. Đô đốc dinh Phiên Trấn là Trần Thượng Xuyên và phó tướng dinh Trấn Biên là Nguyễn Cửu Phú đem quân tiếp viện, đánh Nặc Ông Thâm và Nặc Ông Thu chạy về Xiêm.

Năm 1731, vua Nặc Tha (Sotha II) nhượng cho chúa Nguyễn vùng đất Mỹ Tho và Long Hồ (Vĩnh Long). Năm Nhâm Tý (1732), chúa cho lập dinh Long Hồ và châu Định Viễn.

Năm Giáp Tý (1744), chúa Võ vương Nguyễn Phước Khoát cho cải tổ hành chánh, kinh tế, xã hội ở Đàng Trong, đồng thời chúa cũng cho phát triển dinh Phiên Trấn, nên mở một cuộc di dân rộng lớn. Dân từ Đồng Nai và từ các tỉnh miền Trung được đưa đến Sài Gòn, trong đó có cả một số tăng sĩ. Trong dịp này, chùa Từ Ân và chùa Khải Tường được Thiền sư Phật Ý-Linh Nhạc thành lập ở làng Tân Khai và chùa Giác Lâm được Lý Thoại Long (người Minh Hương) quyên góp thành lập ở xã Phú Mỹ Thọ, thuộc huyện Tân Bình.

Năm 1756, vua Nặc Nguyên nhờ Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên xin dâng cho chúa Võ vương đất Tầm Bôn và Lôi Lạp để chuộc tội đã chống lại chúa. Năm 1757, khi vua Nặc Nguyên chết, lại xảy ra tranh chấp ngôi vua ở Chân Lạp, chúa Nguyễn sai Tông Đức hầu Mạc Thiên Tứ và Thống suất Trương Phước Du đưa Nặc Tôn về Chân Lạp lên ngôi. Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long cho chúa Nguyễn để đền ơn.
Như vậy, chúa Nguyễn đã sát nhập hết phần đất Thủy Chân Lạp của Chân Lạp, tức vùng đất Nam Bộ ngày nay, hoàn thành cuộc Nam tiến, mở rộng lãnh thổ Đàng Trong từ sông Gianh (Quảng Bình) xuống đến tận mũi Cà Mau và Hà Tiên.
* * *
Tóm lại, chúng ta thấy: từ năm 1620, Chúa Sãi hay Chúa Bụt (Nguyễn Phước Nguyên) gả công chúa Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp, nhờ đó, Chân Lạp chấp nhận cho dân Việt vào sinh sống ở Bà Rịa-Đồng Nai-Gia Định và triều đình chúa Nguyễn ảnh hưởng trực tiếp đến triều đình Chân Lạp khi có một số người Việt và Trung Hoa được công chúa Ngọc Vạn đưa vào làm quan ở triều đình Chân Lạp và buôn bán ở kinh đô Oudong.

Sau khi vua Chey Chetta II chết, có nhiều cuộc chánh biến để tranh giành ngôi vua và quyền hành ở triều đình Chân Lạp, công chúa Ngọc Vạn và một số quan chức Việt ở đó đã can thiệp. Đặc biệt quan trọng nhất là khi công chúa Ngọc Vạn nhờ quân của chúa Nguyễn đánh bắt vua Nặc Ông Chân, chấm dứt được việc phát triển Hồi giáo của vua này, và nhờ đó, Phật giáo tiếp tục được phát triển ở Chân Lạp cho đến ngày nay. Như vậy, chúng ta thấy vai trò quan trọng của chúa Sãi và công chúa Ngọc Vạn trong việc phát triển Phật giáo ở Bà Rịa-Đồng Nai-Sài Gòn và ngay cả ở Chân Lạp vào thời đó.
Nhờ vậy, Phật giáo được phát triển và tồn tại đến ngày nay ở Thủy Chân Lạp (tức Nam Bộ ngày nay). Do đó, Tổ sư Nguyên Thiều lập tháp Phổ Đồng ở chùa Kim Cang (Đồng Nai) để thờ công chúa Ngọc Vạn và quân dân Việt hy sinh cho việc kinh dinh vùng đất Bà Rịa-Đồng Nai-Gia Định.

Năm 1698, Chúa Nguyễn Phước Châu sai Thống suất Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh kinh lược vùng đất Bà Rịa-Đồng Nai-Gia Định lập thành phủ Gia Định.
Vùng đất Bà Rịa-Đồng Nai-Gia Định rừng núi hoang vu, đến khi lập thành phủ Gia Định thì đất đai tương đối thuần thục, dễ trồng trọt, sinh sống dễ dàng. Quả đúng như câu tục ngữ: “Vạn sự khởi đầu nan”. Sau thời gian khai phá rừng núi nguy hiểm, gian khổ, khi thành ruộng rẫy thuần thục rồi thì đất đai rất màu mỡ, tài nguyên thiên nhiên rất phong phú nên rất dễ làm ăn sinh sống, khí hậu lại ôn hòa, do đó, vùng đất Bà Rịa- Đồng Nai- Gia Định trở thành vùng đất trù phú, thịnh vượng và an lành. Vì vậy, ca dao có câu:

Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về
Ai về Gia Định thì về
Nước trong gạo trắng dễ bề làm ăn.

Vùng đất Bà Rịa-Đồng Nai-Gia Định không còn chỉ là vùng đất sống về nông nghiệp nữa, dân chúng đến sống đông đúc nhiều nơi, thương nghiệp cũng phát triển nên xuất hiện rất nhiều chợ buôn bán sầm uất và trù phú:

Mẹ đi chợ Quán, chợ Cầu
Mua cau chợ Vải, mua trầu chợ Dinh.

hoặc:
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu
Mua cau Đông Phố, mua trầu chợ Dinh.

Cuộc sống của dân chúng ở Bà Rịa-Đồng Nai-Gia Định được trù phú, ổn định, làm ăn phát đạt, khá giả, không còn gian nguy khổ cực như buổi đầu mới khai phá, mà trở thành nhàn nhã. Thế hệ trẻ mới lớn sau, sống trong cảnh thịnh vượng, an bình, phong cảnh nên thơ tươi đẹp, tình yêu quê hương, tình cảm lứa đôi được nẩy nở đậm đà thắm thiết:

Anh đi ghe cá trảng lườn
Ở trên Gia Định, xuống vườn thăm em.

hoặc:
Cây trên rừng hóa kiểng
Cá dưới biển hóa long
Con cá lòng tong ẩn bóng ăn rong
Anh đi lục tỉnh giáp vòng
Đến đây thời khiến đem lòng thương em.

hoặc:
Cúc mọc bờ ao, kêu bằng cúc thủy
Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa
Viết thư thăm hết một nhà
Trước thăm phụ mẫu, sau là thăm em.

Nơi vùng đất mới, hầu hết là các chàng trai tang bồng hồ hải, không phải là những nhà nho lễ nghĩa thủ cựu, cũng như hoàn cảnh sinh sống mới gần thiên nhiên, phóng khoáng nên các phong tục lễ nghi cổ truyền được cởi mở bớt, phụ nữ không còn phải ru rú trong nhà lo việc bếp núc mà phải tham gia vào việc trồng trọt, làm ăn sinh sống nên phong tục “nam nữ thọ thọ bất tương thân” không còn nữa, phụ nữ trở nên dạn dĩ hơn:

Trầu Sài Gòn xé ra nửa lá
Thuốc Gò Vấp hút đã một hơi
Buồn tình gá nghĩa mà chơi
Hay là anh quyết ở đời với em?

hoặc:
Ghe bầu trở lại về Đông
Con gái theo chồng, bỏ mẹ ai nuôi
Mẹ tôi còn có người nuôi
Tôi theo chú lái, tôi xuôi một bề
Dầu mà chú lái có chê
Tôi theo chú mũi, tôi về Đồng Nai
Đồng Nai gạo trắng như cò
Bỏ cha bỏ mẹ, xuống đò theo anh.

Ở vùng Đồng Nai-Bà Rịa-Bến Nghé còn có một số câu ca dao dí dỏm, ngộ nghĩnh:
Chị Hươu đi chợ Đồng Nai
Bước qua Bến Nghé, ngồi nhai thịt bò.

hoặc:
Con quạ nó đứng chuồng heo
Nó kêu bớ má, bánh bèo chín chưa?
Trước sự dạn dĩ đi đến quá trớn của một số cô gái, khiến các chàng trai có ý chê trách:

Trống kia ai dám đánh thùng
Bậu không, ai dám giở mùng chun vô.

hoặc:
Trăng tròn thì mặc tròn trăng
Bậu xinh mặc bậu, bậu xằng anh chê.

Vùng đất Bà Rịa-Đồng Nai-Gia Định tươi đẹp, nên thơ, trù phú và tình tứ hình thành vào thời các Chúa Nguyễn tiếp tục phát triển cho đến ngày nay.

(Ghi chú : Theo Lịch sử, con của Chúa được gọi là Công Nữ, nhưng trường hợp Công Nữ Ngọc Vạn có nhiều công đức đối với Việt Nam nên nhiều tài liệu xưa thường tôn gọi là Công chúa).



THÁP TỔ SƯ NGUYÊN THIỀU-SIÊU BẠCH VÀ THÁP PHỔ ĐỒNG THỜ CÔNG CHÚA NGỌC VẠN Ở CHÙA KIM CANG (ĐỒNG NAI) ĐÃ BỊ CÁC TẬP ĐOÀN NHẤT HẠNH- CHÂN KHÔNG Ở VIỆT NAM PHÁ HOẠI

Ngày 26 tháng 12 năm 1988 tôi phát hiện được Tháp Tổ sư Nguyên Thiều và Tháp Phổ Đồng thờ Công chúa Ngọc Vạn và quân dân Việt Nam có công trong việc kinh dinh vùng đất Bà Rịa- Đồng Nai- Gia Định ở trước nền chùa Kim Cang (tỉnh Đồng Nai), các Tập đoàn Nhất Hạnh- Chân Không ở Việt Nam đã móc ngoặc với thế lực đen tẩu tán một số đồ cổ của Công chúa Ngọc Vạn còn được lưu giữ ở chùa Kim Long Cổ Tự, đồng thời phá hoại Tháp Tổ sư Nguyên Thiều-Siêu Bạch và Tháp Phổ Đồng ở sân chùa Kim Cang:

Tháng 4 năm 1989, ba tăng ni ở chùa Kim Long Cổ Tự (hai sư Minh Lượng và Hải Thành cùng ni cô Như Định) đã phá bỏ hoa văn ở hai tầng trên của Tháp Tổ sư Nguyên Thiều, tôi báo với ông Giám đốc Bảo tàng Đồng Nai (Tư Nghiệp), Ông đã ngăn chặn, nên tháp chỉ còn hoa văn ở tầng một như hiện nay.





















































Thứ Tư, 11 tháng 1, 2017

VĂN MIẾU TRẤN BIÊN- THÀNH CỔ BIÊN HÒA

THÀNH CỔ BIÊN HÒA VÀ CÁC THIẾT CHẾ VĂN HÓA TÍN NGƯỠNG.
Văn Miếu  Trấn Biên năm 2015

Từ khi thành lập dinh trấn tại thôn Phước Lư, đến khi xây dựng hoàn chỉnh Thành Biên Hòa tại thôn Tân Lân; đi đôi với việc xây dựng thành trì, binh lực, quản lý hành chánh đất đai, cư dân…Triều đình còn ra lịnh cho quan lại sở tại, xây dựng các thiết chế thờ tự tôn nghiêm theo quy chế, điển lệ của trung ương như:
1/Đàn Xã Tắc
2/Đàn Tiên Nông-Tịch Điền
3/Miếu Văn Thánh
4/Miếu Hội Đồng
5/Đền Trung Tiết (Trận Vong Hướng Sĩ)
6/Miếu Thành Hoàng
7/Miếu Tiên Tàm (nhà nuôi tằm trong lỵ sở)

3/Miếu Văn Thánh
Miếu Văn Thánh (Văn Miếu) là nơi thờ các bậc tiên thánh, tiên sư của đạo Nho; ngoài ra văn miếu Trấn Biên lúc bấy giờ còn phụ kèm một cơ sở học đường của triều đình, nhằm đào đạo sĩ phu, trí thức, tầng lớp tinh hoa của xã hội thời quân chủ.
Văn miếu Trấn Biên được hình thành sớm nhất miền nam. Đây là thiết chế tín ngưỡng văn hóa quan trọng của triều đình.
Cho đến trước thời điểm Pháp xâm lược nước ta; từ kinh sư, phủ Thừa Thiên đến 2 đạo Hà Tỉnh, Phú Yên và 26 tỉnh từ bắc chí nam đều được cho xây dựng văn miếu, riêng chỉ có tỉnh An Giang là chưa dựng.
Văn miếu Trấn Biên được xây dựng từ năm 1715; chỉ sau một thời gian ngắn (17 năm) kể từ khi Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vâng lịnh chúa Nguyễn Phúc Chu vào kinh lược đất Nam Bộ vào năm 1698; Thống Suất cho thành lập phủ Gia Định, đặt dinh Trấn Biên (Biên Hòa) và dinh Phiên Trấn (Sài Gòn); chính thức sát nhập vùng đất mới này vào lãnh thổ nước ta, làm bàn đạp tiến hành công cuộc nam tiến.
Văn miếu xưa kia được xây dựng tại thôn Tân Lại, tổng Tân Chánh, huyện Phước Long (1806); theo Biên Hòa sử lược toàn biên của tác giả Lương Văn Lựu thì nay là khu vực gần chùa Phổ Hiền, khu phố III, phường Bửu Long. 
Văn miếu nằm trên cuộc đất phong thủy tuyệt đẹp: mặt tiền (tiền đường) hướng nam nhìn ra ra sông Phước Long (sông Đồng Nai), mặt hậu (hậu chẩm) có Long Sơn (núi Long ẩn)  cảnh đẹp thanh tú, cỏ cây tươi tốt... Bên trong miếu cột kèo liễn đối bằng gỗ tốt, chạm khắc tinh xảo, khuôn viên hoa cỏ, cây trái sum suê xanh tốt.
Trong ghi chép về Dinh Trấn Biên (quyển 7- Hoàng Việt thống nhất dư địa chí- 1806) Thượng thư bộ hộ của vua Gia Long- Lê Quang Định có đoạn ghi: 
…Từ bến trước cửa trấn thành, sông rộng 165 tầm, khi nước lên sông sâu 5 tầm, nước xuống sâu 4 tầm, vào mùa đông xuân nắng to thì nước trong và ngọt, hè thu có mưa lụt nên nước hơi đục. Đi ngược lên 1.020 tầm, hai bên đều có dân cư nhưng thưa thớt, thổ sản ở vùng này là cau trầu và mía. Đến điện Văn Thánh, điện ở phía bắc do tiền triều lập ra, năm Quý Sửu (1793) quan đăc mệnh bộ lễ là Điển Chương hầu tu sửa mới lại bằng tường gạch mái ngói, trông rất đẹp mắt, theo lệ nước, tế vào ngày Đinh hai kỳ xuân thu, lể sinh gồm 50 người, từ phu thì có dân phụ lũy. Mặt trước miếu trông ra sông lớn, mặt sau tựa vào núi cao, là thắng cảnh thứ nhất của Trấn Biên, từng có thơ đề rằng:
Văn phong cao trĩ hải thiên đông
Vạn thế canh tường tưởng tượng trung
Vị tử nhân tâm tỉnh hậu mộng
Trường lưu ngô đạo vãn lai phong
Oanh hồi Tứ thủy phương nguyên tịnh
Tịch mịch sơn đàn mộ vũ dung
Hư đái Nho quan ly loạn nhật
Trùng lai do đắc ngưỡng huỳnh cung
(dịch giả tạm dịch)
Non kia cao vút giữa trời đông
Muôn thuở đạo xưa vẫn ôm lòng
Chưa mất lòng người sau cơn mộng
Mãi còn đạo cả với non sông
Ngoằn ngoèo sông Tứ mùi tinh khiết
Tịch mịch đàn Sơn tiếng thông dung
Mũ áo nhà Nho ngày loạn lạc
May còn gặp lại chốn huỳnh cung.
(Tứ hủy, Sơn đàn là chỉ quê hương của Khổng Tử, Huỳnh cung là trường học, đây chỉ Văn miếu)
Văn Miếu  Trấn Biên năm 2015
Trước năm 1802, hằng năm  đích thân chúa Nguyễn Ánh đến hành lễ hai lần vào mùa xuân và mùa thu. Nhưng từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi ở Huế, thì quan tổng trấn thành Gia Định, hoặc các quan viên đứng đầu tỉnh nhà,  thay mặt vua  đến hành lễ long trọng.
Văn miếu nằm ở phía tây (bên phải)  tỉnh thành cách độ 2 dặm (khoảng gần 1.000m), lúc ấy nơi đây dân cư đã ổn định, lưu dân (đến từ đầu thế kỷ 17) làm ruộng lúa, trồng trầu cau, mía (phường Tân Lại); một nhóm dân tộc Hoa (theo chân binh đoàn của đô đốc Trần Thượng Xuyên- 1679) làm nghề khai thác chế tác đá, rèn đúc công cụ sản xuất, làm gốm, lò gạch (phường Bạch Khôi, núi Lò Gạch- Long Sơn), làm rẩy trồng các loại rau, cải, củ giống mới, mang theo từ cố hương.
Đến năm 1794, sau khi làm chủ miền nam, chúa Nguyễn Ánh sai quan lễ bộ Nguyễn Đô trùng tu văn miếu. Tự Đức năm thứ năm- 1852, Văn miếu tỉnh thành được đại tu bổ theo điển lệ chung của triều đình:
-Văn Thánh miếu : Chính đường, tiền đường (ngang) đều 5 gian. Hai bên (dọc) trái, phải đều có 2 dãy nhà 5 gian, mặt tiền treo biển hiệu “Văn miếu điện”
-Khải Thánh miếu (thờ Thúc Lương Ngột- Nhan Thị là cha mẹ của Khổng Tử): Chính đường, tiền đường (ngang) đều 3 gian 2, mặt tiền treo biển “Khải thánh từ”.
-Một kho chứa đồ thờ 3 gian.
-Khuê văn các cao 2 tầng, 3 gian 2chái.
Bài vị trong miếu đều theo thể thức, kiểu mẫu chung do triều định quy định (không thờ ngẫu tượng).
Gian giữa của chính đường thờ bài vị chính: Chí thánh Tiên sư Khổng Tử.
Gian thứ nhất, trái- phải thờ các vị phối hưởng là 4 học trò xuất sắc của Đức Khổng Tử là: Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư và Mạnh Tử. Bệ được xây gạch, trên bệ có cổ khám, trạng gỗ để bài vị.
Gian thứ hai, trái- phải thờ 12 vị tiên triết: Mẫn Tổn, Nhiễm Canh, Nhiễm Ung, Tể Dư, Đoan Mộc Tứ, Nhiễm Cầu, Trọng Do, Ngôn Yển, Bốc Thương, Chuyên Tôn Sư, Hữu Nhược và Chu Hi.
Gian thứ ba, trái- phải ở phía trước, thờ các vị tiên hiền: những người đầu tiên có công khai khẩn, khai canh xứ Trấn Biên.
Hai gian chaí, trái- phải, thờ các vị tiên nho: Những người khoa cử, học vị, người có công truyền dạy, phát triển văn hóa cho địa phương; tất cả bài vị đều đặt trên bệ xây gạch.
Hàng năm theo lệ ban của triều đình, tế lớn hai lần vào tháng trọng xuân và tháng trọng thu (tháng thứ 2 của mùa xuân và tháng thứ 2 của mùa thu).
 Bàn thờ chính cúng tam sinh (trâu, dê, heo) và xôi, quả phẩm 3 mâm. Các vị phối hưởng, lễ dùng 2 heo, 4 mâm xôi, quả phẩm 8 mâm. Các vị tiên triết, lễ dùng 1 heo, 2 mâm xôi, 4 mâm quả phẩm. Mười án thờ tiên hiền, tiên nho thì dùng 5 con heo, xôi 20 mâm, 10 mâm quả phẩm, chia nhau dâng cúng.
Sau gần 150 năm hình thành và phát triển, sau khi nam bộ bị Pháp xâm lược, Văn miếu Trấn Biên cũng dần lụy tàn .
Nhân dịp kỷ niệm 300 năm hình thành và phát triển vùng đất Trấn Biên- Biên Hòa; tỉnh Đồng Nai đã khởi công xây dựng khu Văn Miếu Trấn Biên mới tại phường Bửu Long; công trình được khánh thành vào ngày 14/ 02/ 2002, với tổng diện tích gần 15.000m2, trong đó khu trung tâm rộng khoảng 2.000m2. Công trình với quy mô hoành tráng, to đẹp với mục đích tái tạo di tích văn hóa của tiền nhân; bảo lưu, truyền thừa, phát huy tinh thần tôn sư trọng đạo; gìn giữ và tôn vinh các giá trị văn hóa - giáo dục của vùng đất địa đầu- Trấn Biên oai hùng năm xưa.
 Lễ khánh thành vào ngày 14/02/2002,
Văn miếu Trấn Biên ngày nay là một công trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc, là trung tâm sinh hoạt văn hóa- giáo dục. Nơi đây đón tiếp nhiều tầng lớp nhân dân trong và ngoài tỉnh đến tham quan. Là nơi tổ chức nhiều loại hình hoạt động cộng đồng. Hàng năm, trung tâm Văn miếu Trấn Biên tổ chức hội hoa xuân, đường hoa, vườn tượng, biểu diển nghệ thuật, giao lưu văn hóa văn nghệ như: biểu diễn âm nhạc dân tộc, đờn ca tài tử của các đoàn nghệ thuật, chương trình xiếc, ảo thuật; giao lưu các ban nhạc trẻ, ca sĩ, nghệ sĩ nổi tiếng…
Với bề dày lịch sử, nghệ thuật kiến trúc đẹp, tầm quan trọng  nhất định về các sinh hoạt văn hóa, lễ hội của Biên Hòa- Đồng Nai. Văn miếu trấn biên ngày càng chứng tỏ ưu thế vượt trội của mình.
Với những giá trị lịch sử và văn hóa đó, Văn miếu Trấn Biên được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử theo Quyết định 2894/QĐ-BVHTTDL ngày 18-8-2016.  Sáng  ngày 22-11-2016, Trung tâm Văn miếu Trấn Biên  tổ chức lễ đón nhận bằng di tích lịch sử cấp quốc gia./.
 
Văn Miếu Trấn Biên tết 2015
Ảnh net
Viếng Vạn thế sư biểu 2015
Văn miếu Gia Định và Văn miếu Biên Hòa được người Pháp vẽ trong bản đồ năm 1859 ( ghi chú là Temple Royal)
Bản đồ Biên Hòa năm 1863 (chú thích  các địa điểm năm 2016)
Bản đồ ghi chú vị trí các di tích xưa trực thuộc quản lý của Thành Biên Hòa
Số 1: Thành Biên Hòa
Số 2: Văn Miếu
Số 3: Miếu Hội Đồng
Số 4: Đền Trung Tiết (Trận Vong Hướng Sĩ)
Số 5: Miếu Thành Hoàng
Số 6: Đàn Xã Tắc
Số 7: Tịch Điền
Số 8: Xưởng Thuyền Công

 Trích trong: Thành Biên Hòa và các cơ sở thiết chế tín ngưỡng- Nguyên Phong Lê Ngọc Quốc (bản thảo)

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

(1) Gia Định thành thông chí- Trịnh Hoài Đức- Hậu Học Song Hào Lý Việt Dũng dịch và chú thích- NXB Đồng Nai 2006.
(2) Hoàng Việt thống nhất dư địa chí- Lê Quang Định
(3) Đại Nam Thực Lục- Quốc sử quán
(4) Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn Biên Hòa- Nguyễn Đình Đầu.
(5) Đại nam Quốc Lược Sử- Alfred Schreinr, Sài Gòn 1906
(6) Khâm định đại nam hội điển sự lệ-Nội các triều Nguyễn.
(7) Đại Nam nhất thống chí- Nội các triều Nguyễn.
(8) Biên Hòa sử lược toàn biên- Lương Văn Lựu.
(9) 85 sắc phong ở Miếu công thần tại Vĩnh Long.Thư viện khoa học tổng hợp Tp HCM 2013.
(10) 290 năm (1715- 2005) Văn Miếu Trấn Biên- Thành Ủy, UBND Thành phố Biên Hòa
(11) Đại Nam Thực Lục, Quốc Sử Quán Triều Nguyễn
(12) Minh Mệnh Chính Yếu, Quốc Sử Quán Triều Nguyễn.
(13) http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k62202176.item
(14) Việt Nam phong tục – Phan Kế Bính.
(15) Việt điện u linh tập- Lý Kế Xương.
(16) Nghi và văn cúng chữ Hán ở thành phố Biên Hòa, Bảo Tàng Đồng Nai, nhà xuất bản Đồng Nai, 2013- Hậu học song hào Lý Việt Dũng dịch và chú thích-
(17) Cơ sở tín ngưỡng và truyền thống ở Biên Hòa, Phan Đình Dũng
(18) Người Pháp và người Annam, bạn hay thù- Philipe Devillers- Nhà xuất bản tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
(19) Hồ sơ khoa học di tích lịch sử- kiến trúc nghệ thuật thành phố Biên Hòa- Ban di tích thành phố Biên Hòa.
(20) Lịch sử cuộc viễn chinh nam kỳ năm 1861-Le1opold Pallu, Hoàng Phong dịch và bình- Nhà xuất bản Phương Đông 2008
(21) tuần báo Le Monde Illustré của Pháp, số 254 năm thứ 6, ra ngày 22/02/1862
(22) Lý lịch sự vụ, nguyên tác Nguyễn Đức Xuyên, dịch và khảo chú: Trần Đại Vinh- Tạp chí nghiên cứu và phát triển số 6(123) và số 7(124) năm 2015
(23) Một số tài liệu trên internet và tư liệu điền dã
(24) http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k62202176.item
(25) https://www.delcampe.net/fr/collections/cartes/autres/carte-lever-de-la-place-de-bien-hoa-et-de-ses-environs-363149798.html