Thứ Hai, 22 tháng 6, 2015

BIÊN HÒA- ĐỊA LINH NHÂN KIỆT (001)

Bửu Long- Làng Tôi
(Bài của ông Huỳnh Sanh, trích trong BHLS của Thái Thụy Vy)

Tôi chào đời cách đây hơn 60 năm tại làng Bửu Long, một làng nghèo nàn, dân cư thưa thớt, cách tỉnh lỵ Biên Hòa lối năm cây số về hướng bắc. Làng tôi nhỏ hẹp vì ở vào một địa thế đặc biệt; sau lưng núi Bửu Long ngăn cách, trước mặt sông Đồng Nai chắn ngang. Vì thế bề dài làng tôi lối 1500m, bề ngang chỗ rộng nhất lối 450m. Tuy nhỏ bé làng tôi cũng không kém phần quan trọng về mặt kinh tế, vì đây sản xuất đá xanh để trải đường và làm mộ phần. Khách thập phương thưởng ngoạn viếng làng tôi, vì trên trái núi có ngôi cổ tự tên gọi Bữu Long, nổi danh với Long Đầu Thạch và Hổ Đầu Thạch còn gọi nôm na là Hàm Rồng Hàm Hổ, tạo nên bởi những hòn đá thiên nhiên chồng chất thành hình đầu rồng và đầu hổ. Để có một ý niệm rõ hơn về làng tôi, mời các bạn xem bài vịnh núi Bửu Long sau đây: 
Đồng Nai dòng nước uốn quanh
ôm vòng Thạnh Hội (1),
ngăn Bình Hòa thôn (2)
Bửu Long trấn thủ một đồn (3)
có con lộ bóng có cồn cây xanh
Bửu Long cổ tự chùa linh
đá chồng trên đá, tượng hình hổ, long
đây non nước một vùng
danh lam thắng cảnh Biên Hùng là đây.

(1) Thạnh Hội là một cù lao ngang làng tôi
(2) Bình Hòa là làng giáp ranh về hướng bắc 
(3) Xưa kia Bửu Long là tiền đồn trấn giữ tỉnh Biên Hoà.

Bao nhiêu đặc điểm đó hợp lại tạo thành một trong những thắng cảnh thiên nhiên của tỉnh Biên Hòa và của cả miền Nam nước Việt. Sở dĩ tôi dài dòng về vị trí, diện tích và địa chất làng tôi vì những việc sắp kể sau đây có liên quan mật thiết với những chi tiết đó. Làng tôi gồm lối 100 gia đình, mà 90% là Hoa kiều hoặc Việt gốc Hoa. Họ sống về nghề làm đá trải đường, đá cấp tán để kê cột nhà, đá mộ bia, cối xay bột, tạo những ngôi mộ theo kiến thức Trung Quốc. Ngoài nghề làm đá, họ còn sống bằng nghề phụ không kém phần quan trọng: nghề in gạch, ngói dùng trong làng hoặc cung cấp cho những tỉnh kế cận như Xuân Lộc, Bà Rịa, Vũng Tàu, Thủ Dầu Một... Riêng nghề làm đá, tôi có thể tự phụ nói rằng, từ Nam chí Bắc, ít nơi kiến tạo đƣợc những công trình tuyệt xảo như ở làng tôi. Muốn tận mắt thƣởng thức sự khéo tay đầy kiên nhẫn của các anh thợ đá, xin mời các bạn cùng tôi rẽ vào viếng thăm một trại đá của người Hoa kiều nước Hẹ (Hakka), ngắm nhìn những thân hình lực lưỡng đang còm lưng chăm chú đục, đẽo, chạm trổ những phiến đá xanh để tạo những hình Rồng, Phụng, Cá hóa long, Kỳ lân... Tất cả những hình ảnh giả tƣởng nầy đều được chạm nổi trên những cây trụ đá dài từ 2 đến 5-6m: Rồng với những móng vuốt bén nhọn, miệng há to ngậm trái châu tròn vo, thò tay khều mà không lấy ra được; Phụng cánh xòe to như sắp vượt lên mây; Cá hóa long đang lượn trên dòng sóng bạc; Kỳ lân ngậm châu chễm chệ ngồi trên trụ đá vuông... Nhiều nơi đã đặt những trụ Rồng, Kỳ lân nầy để dùng vào việc xây cất Chùa Ông hay Chùa Bà theo tín ngưỡng của người Trung Hoa. Và 9 cây trụ Rồng nầy cũng đã được nhà triệu phú Cao Triều Phát ở Bạc Liêu đặt để tạo Cữu Trùng Đài cho thánh thất Cao Đài. Không biết những công trình độc đáo nầy còn giữ được nguyên vẹn hay đã lụi tàn... Một đặc điểm khác là sự kiến tạo một ngôi mộ đá xanh mài láng như mặt đá cẩm thạch, chạm trổ tinh vi theo kiến trúc cổ truyền Trung Hoa, cho những thân nhơn quá cố của những tay trọc phú Trung Hoa hay Việt nam như Hui Bon Hỏa, Lý Long Thân, Trương Văn Bền, Y Oan Tần Kiệt... Những công trình tuyệt kỷ đó đã được thực hiện bởi những người tiền phong về nghề làm đá mà trong đó có ngoại tổ và thân phụ của tôi, hợp cùng những tay thợ lành nghề từ Trung Hoa sang lập nghiệp có hơn 100 năm về trước. Rất tiếc vì phải chạy theo trào lưu tiến hóa nên tôi đành xoay nghề, để mai một, một kỹ thuật tinh vi hiếm có. Phải chăng đó là một trọng tội đối với nền mỹ nghệ nước nhà! 

Như trên đã nói, ngoài nghề làm đá, dân làng còn sống bằng một nghề phụ là nghề in gạch ngói. Đến đây, các bạn sẽ thấy vị trí ven sông là ƣu điểm của làng tôi. Thời bấy giờ, việc in gạch ngói đều trông cậy vào sức lao động chân tay. Vật liệu chánh là đất sét phải do những ghe tam bản chở từ bên kia sông về. Việc giao hàng cũng nhờ ghe thuyền chuyên chở. Và cái làng nhỏ hẹp của tôi có được tất cả là bảy lò gạch ngói nên được kêu bằng một tên khác: làng Lò Gạch. Phần đông thợ in gạch là phụ nữ, ban ngày đập đá trên núi, tối lại đi in gạch để bù đắp vào sự túng thiếu của gia đình. Tuy phải làm việc vất vả một sương hai nắng như vậy, nhưng các cô thợ in vẫn vui tươi, luôn luôn cười cười nói nói, không hề mở miệng than van về số phận của mình. Trái lại các cô còn có một "tâm hồn nghệ sĩ" đáng mến. Để quên phần nào sự mệt nhọc, các cô vừa in gạch ngói vừa ca những bài cổ ca, ngâm thơ, vịnh phú, trêu chọc nhau bằng những chuyện tiếu lâm, rồi xúm lại cười dòn như pháo Tết. Cái thú được các cô ưa thích nhứt là những trận "hò bắt" (người nầy hò kẻ kia bắt lại gọi là "bắt") để ghẹo những anh trai tráng chèo ghe cát từ trên thượng lưu xuôi dòng sông Đồng Nai về cung cấp cho thủ đô Sàì Gòn hoặc những tỉnh Tiền giang. Cát Biên Hoà được nổi tiếng là tốt nhất miền Nam, cũng như bưởi Biên Hoà ngon không đâu sánh kịp. Đến đây, mời các bạn cùng tôi bách bộ lên sân in vào một đêm tốt trời để thưởng thức một thú vui tao nhã, tràn đầy thi vị ít nơi có. Tuy đang cặm cụi in, nhưng mắt các cô vẫn luôn luôn canh chừng dòng nước biếc. Kìa một ghe cát vừa ló dạng nơi đầu vịnh, lờ đờ trôi giữa sông. Một tiếng hò lảnh lót vang lên tức khắc, phá tan sự u tịch của đêm khuya, để ghẹo chàng trai nào đó đang còm lưng đẩy mạnh mái chèo

Hò rằng : Hò. . . ơ. . . ơ. . . ơ. . .ơ
ban ngày anh chèo ghe mệt ngất
tối lại anh phải lặn cát lạnh rung
em thương anh em cũng muốn bạn cùng
nhưng phận đào thơ liễu yếu Hò. . .ơ. . . ơ. . . ơ. . . ơ
nhưng phận đào tơ liễu yếu
giúp trai hùng được đâu....

Câu hò vừa dứt, giữa sông một câu hò bắt lên: 

Anh ngày đêm dầm mưa dãi nắng 
để mong cùng em chấp gắn sợi chỉ hồng
 Hò. . ơ. . . ơ. . . ơ. . . ơ
nếu đôi ta nên nghĩa vợ chồng 
anh thì chèo ghe lặn cát
còn em thì lo phụng dưỡng song thân ở nhà.

Câu hò "bắt" vừa dứt thì nghe ghe cát đã lướt khỏi sân trên. Một giọng hò khác của cô thợ in sân kế được nối tiếp liền:

Tạ lòng anh muốn cùng em gây một chữ đồng
nhưng dạ em còn ngại,
Hò. . . .ơ. . . .ơ. . . .ơ. . . .ơ
Nhưng dạ em còn ngại 
Mẫu thân anh không bằng lòng...

Trên ghe cát lặng thinh, có lẽ vì cạn nguồn thơ.. Một tràng cười chế nhạo nổi lên trong nhóm mấy chị thợ in ranh mãnh. Một ghe cát khác lù lù trờ tới. Tiếng hò ghẹo lại nổi lên:

Hò. . .ơ. . . ơ. . . ơ. . .
Tiếng anh ăn học làu làu
lại đây em hỏi thử
Hò. .. ... ơ. . . ơ. . . ơ. . . ơ
Lại đây em hỏi thử 
Vậy chớ Cây Đào* có mấy bông? 
*( Một địa danh của quận Tân Uyên).

Biết bị chơi chữ, anh chàng trên ghe cát, có lẽ chưa tìm ra liền câu "bắt", bí lối nên mở đầu bằng một câu giáo tuồng:

Ngó lên trời thấy cụm mây trắng
Ngó lên núi thấy đám mây vàng.
Bây giờ anh mới hỏi nàng
Sao trên trời mấy cái
Mấy con cá vàng lội dưới sông?

Rồi cái đà tương tự như thế, người trên sân hò, người dưới ghe bắt, sân này chuyển qua sân nọ, ghe này sang qua ghe kia, cứ liên tục tiếp diễn suốt đêm, cho đến khi chiếc ghe cát cuối cùng mất dạng trong đám sương khuya. Rồi đêm khác, đêm khác nữa, ngày nầy sang tháng nọ, cái trò tiêu khiển đầy thơ mộng nầy cứ tái diễn, lắm khi kết cục bằng những đám hôn nhơn tốt đẹp giữa chàng trai ghe cát và cô thợ in ngói xinh xinh. Điều đáng nói nơi đây là những câu hò đầy văn hoa, những câu "bắt" đầy ân tình nhưng không thô bỉ, được thốt ra nơi cửa miệng của các cô thôn nữ nghèo nàn, những chàng trai dốt nát, vì kế sinh nhai phải sớm lăn vào đời lao động, không được diễm phúc đến nhà trường như những con nhà khá giả khác. Bất quá họ chỉ nhờ anh chị lối xóm chỉ cho biết đọc sơ chữ quốc ngữ để học những bài ca Dạ cổ hoài lang, Tây thi, Cổ bản, Bình bán vắn, Khổng minh tọa lầu... hoặc để xem truyện Lâm Sanh Xuân Nương, Phạm Công Cúc Hoa, Con Tấm Con Cám... Vậy mà họ tức cảnh nên lời, tạo được những câu hò bất hủ, tuy mộc mạc nhưng thâm thúy, hồn nhiên, không cầu kỳ chải chuốt nhưng bao hàm ý vị, đầy vẻ nên thơ. Cái đáng nói là khi cô thợ in bị bí lối, hoặc anh chèo ghe tịt ngòi thì cô hay anh khác nhảy vào trận để "cứu bồ" liền. Ngộ nghĩnh và đáng khen ở cái tình đồng đội chặt chẽ đó. Tiếc rằng những thú vui tao nhã như thế đã diễn ra tôi còn là cậu bé mới học lớp nhì trường làng, chưa thưởng thức hết cái hay của nó để ghi hết vào lòng, nên chẳng còn nhớ được bao nhiêu hầu cung hiến các bạn. Chỉ còn nhớ rõ là khi trời sụp tối, cơm nước xong, tôi và các bạn nhỏ không đêm nào không có mặt ở sân in để nhảy chắn chậu, phụ bưng đất sét với mấy chị thợ in, hoặc để cười hùn với các chị cho thêm rậm đám. Mười lăm năm sau... Vì phải lên Sài Gòn, rồi xuất ngoại du học nên tôi vắng làng trong thời gian lâu. Khi trở về làng cũ, việc tôi làm trước nhứt là lên thăm những lò gạch cũ. Tim tôi se lại, nước mắt tuôn trào khi đứng trước cảnh điêu tàn, sụp đổ phủ phàng. Những lò gạch xưa kia, khi được đốt lên đã hùng hổ phun khói lửa tận mây xanh không thua những hỏa diệm sơn trong cơn giận dữ, nay chỉ còn là những đống gạch vụn, phủ đầy rêu xanh, cỏ dại, chỉ để làm ổ cho chuột bọ rắn rít. Vì cạnh tranh không lại những lò gạch tối tân chạy bằng cơ khí, năng xuất cao, phẩm chất tốt, giá thành lại rẻ, nên những chủ lò đành đóng cửa lò gạch, dẹp sân in để chuyển sang nghề khác. Đang ngậm ngùi cho số phận hẩm hiu, nhƣng có một quá khứ nên thơ của những lò gạch cũ, bổng dưng tôi nghe một giọng hát quen thuộc từ trong mái tranh rách nát theo gió thoảng ra. Tọc mạch, tôi đẩy tấm phên tre xiêu vẹo dùng làm cửa, rón rén bước vào nhà. À, té ra là nhà chị Nữ, một chị thợ đập đá kiêm thợ in ngói, một thôn nữ dịu hiền, có giọng hò hay nhứt nhì trên sân in của bà ngoại tôi.
Thấy tôi chị lật đật bồng đứa nhỏ vừa lên một tuổi rối rít mời tôi ngồi ghế chơi, theo thế quen miệng. Thật ra, nhà chị chỉ có cái bàn cũ rích và một cái chõng tre vừa dùng làm giường ngủ, bàn ăn và cái sân chơi cho mấy đứa con chị. Sau những câu thăm hỏi thường lệ, tôi khen chị một câu: - Chị bây giờ cũng còn hò hay như cũ! Một nét buồn vụt hiện trên nét mặt rám nắng của chị, nhưng chỉ một thoáng, chị cười dòn và trả lời gọn:
- Hay ho gì nữa mà cậu khen. Bây giờ chồng con đùm đùm đề đề. Anh nhà tôi đi làm chưa về, tôi ở nhà lo cơm nước cho ảnh và giữ mấy đứa nhỏ. Hỗm rày, con Tý vừa thôi sữa, nó nhỏng nhẻo quá nên phải hát ru nó mới chịu ngủ. 
Trong câu trả lời đơn sơ và hồn nhiên đó, tôi nhận thấy ở chị một cái gì cao đẹp. Lúc nhỏ làm việc đầu tắt mặt tối để nuôi dưỡng cha mẹ già, lớn lên có đôi bạn thì chỉ biết thờ chồng nuôi con, đúng theo nề nếp cổ truyền của Á đông ta. Hình ảnh cô gái ngây thơ, nhí nhảnh đáng mến khi xưa, nay chỉ còn sót lại một thiếu phụ già trước tuổi vì phải làm lụng quá cực khổ, một nụ cƣời hồn nhiên và một giọng hát ru con lảnh lót nhƣ độ nào. Tôi từ giã chị mang theo lòng buồn man mác. Chỉ biết buồn chứ không làm gì hơn được. Thể theo "DỊCH", mọi sự trên vũ trụ đều phải "BIẾN", "ĐỘNG". Trên trời mấy vì sao luôn luôn di động, gió thổi mây bay. Dưới thì quả địa cầu luôn luôn xoay chuyển, lòng đất luôn luôn rúng động. Trên thế gian, NGƯỜI, CÂY CỎ, CẦM THÚ đều biến dạng không ngừng. Làm sao đi ngược lại những biến chuyển tự nhiên của Tạo Hóa được. Chỉ nguyện với lòng mình không bao giờ lãng quên..., đặt nặng tình yêu thương đồng bào, kết chặt tình đoàn kết, bỏ ngoài tai những bất đồng nhỏ nhen để lo cho Đại Sự. Mơ trở về làng cũ, sống lại những ngày thanh bình, ăn những cái Tết đầy hương vị như xưa...
HUỲNH SANH- Mùa đông Quý Hợi 1984 vào một đêm lạnh, tuyết rơi phủ trắng KNOX CITY
Văn Miều Trấn Biên
Hồ Long Ẩn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét